Nguyễn Văn Lục
Một số kinh nghiệm về 20 năm nền giáo dục miền Nam
Bài dăng từ Đàn Chim Việt
LGT: Nguyễn Văn Lục là GS Triết trước 75 và viết bài ở hải ngoại. Bài của ông thường là khảo cứu và rất công phu. Hôm nay, có lẽ sau khi đọc bài ( Hoàng Lan Chi với Gia Long Brisbane) của tôi ( link: Hoàng Lan Chi với Gia Long Brisbane- August 2016 ) nên ông bèn gửi bài của ông đăng trên danchimviet với cái “subject mail” rất dễ thương ( Gửi chút qùa cho Gia Long).
Món quà này, bài (Một số kinh nghiệm về 20 năm nền giáo dục miền Nam) của Gs Lục gửi người Gia Long (Hoàng Lan Chi ), đã làm Hoàng Lan Chi khóc sướt mướt trong một ngày mùa đông Brisbane. Tim tôi đau nhói và những ngày cũ hiện về. Tất cả những gì ông viết đều đúng và những nhận xét về “nhà giáo” của ông làm tôi giá buốt chỉ vì họ hàng tôi , gia đình tôi đều là “nhà giáo”. Bản thân tôi, dù không thích nhưng như cái “nghiệp tổ tông”, tôi cũng gõ đầu trẻ mấy năm. Nhận xét này của GS Lục làm tôi rất ưa thích (Nền giáo dục ấy tuy nhẹ về phần thực dụng cũng như thể dục lại nặng về phần trí dục và cũng chú trọng nhiều đến phần đức dục, nhất là ở những năm tiểu học. Phải chăng đó chính là những nét đẹp nhất của nền giáo dục miền Nam?). Vâng, nền giáo dục của chúng ta, qua hai nền cộng hòa, nặng về đức dục và cá nhân tôi cũng bị ảnh hưởng sâu đậm bởi giáo dục ấy. Đó cũng là lý do mỗi khi viết về Gia Long, tôi vẫn có một niềm tự hào. Bài viết mới nhất về Gia Long Brisbane, cũng đề cao cái tình, cái “ái hữu” của Gia Long.
Những nhận xét về “giấy rách giữ lề” của nhà giáo làm tôi quặn đau. Nước mắt tôi lả chả khi đọc đến đoạn GS Lục kể, người thầy dậy Sử địa năm xưa giờ là trò của ông, khi ông nói rằng (Lần này thì tôi không thể nói, “Tôi là Carnot đây.”Tôi phải nói thế nào? Tôi chỉ thấy hoàn cảnh rất oan trái của một số thầy làm nghề dạy học. Dáng đứng uẩn khuất của thầy dạy sử địa của tôi không dễ mà thấy được. Cho đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi Thầy là ai? Nhưng ít ra cũng là cái gương hiếu học đáng quý của người Việt Nam mà thầy tôi là một trong vô số những người ấy. Nếu được phép nói thì, “Thưa thầy, con vẫn kính trọng thầy.”). Ngưng trích.
GS Lục cũng kể về một chuyện liên quan đến đức dục của Gia Long NK (71-72). Lúc đó tôi đã ra trường rồi. Tôi chỉ mới biết câu chuyện này do một GL kể lại vào 2015. Khi nghe, tôi đã không đồng ý với các em nữ sinh đó. Nhà trường đã kịp thời chặn, hai cô nữ sinh bị zero hạnh kiểm. Tôi hoàn toàn đồng ý về biện pháp xử phạt của nhà trường.
Nhận định về các nhà giáo tiêu biểu, GS Lục liệt kê cô Hiệu Trưởng Trần Thị Tỵ của chúng tôi. GS Lục thắc mắc cô Tỵ làm cách nào điều hành được Gia Long sau 75. Xin thưa cùng giáo sư: sau 75, khi các nam giáo sư trường khác đến trường Gia Long chấm thi, cô Tỵ chúng tôi vẫn yêu cầu họ đậu xe riêng một nơi. Dường như cô Tỵ cũng “đấu tranh” với cộng sản khá nhiều khi họ phá vỡ những nề nếp cũ, làm nên danh tiếng Gia Long của chúng tôi.
Xin giới thiệu bài viết ( Một số kinh nghiệm về 20 năm giáo dục miền Nam) của GS Nguyễn Văn Lục. Có lẽ tựa do Đàn Chim Việt đặt chăng vì với cá nhân tôi là không hay. Đây phải nói là đem tâm tình viết lịch sử.
Xin cảm ơn GS Nguyễn Văn Lục rất nhiều về bài viết công phu này. Theo tôi, tất cả mọi người nên đọc vì tất cả đều trải qua giáo dục VNCH, không nhiều thì ít. Bài viết này của Gs Lục, nhắc nhở tôi là tôi mải mê với (đánh việt gian bảo vệ phòng tuyến quốc gia) quá và đã quên rằng, tôi, cô nữ sinh Gia Long, cần phải viết về những người Thầy Gia Long của mình.
Hoàng Lan Chi
********************************************
Một số kinh nghiệm về 20 năm nền giáo dục miền Nam
Bài dăng từ Đàn Chim Việt
Posted on August 3, 2016 by editor — No Comments ↓
Nguyễn Văn Lục
Nhìn lại nền giáo dục của 20 năm miền Nam dễ mà cũng khó. Dễ ở chỗ nếu chúng ta chỉ nhìn vào những thành quả đạt được của các trường Kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia Hành chánh, trường Đại Học Sư phạm, trường Y Khoa và ngay cả các trường sĩ quan Hải quân, Không quân và các trường sĩ quan Thủ Đức và nhất là sĩ quan Đà Lạt.
Đem tâm tình viết lại một số trải nghiệm về 20 năm nền giáo dục miền Nam
“Thầy ơi, thầy khổ đã bao lần?
Mái tóc sương pha đã mấy phần?
Có lắm chiều tà mưa phủ trắng.
Thầy cười tha thứ kẻ vong ân.”
(Nguyễn Duy).
(Trích lại trong bài Từ trường học đi tới Trường đời của Nguyễn Thị Thu Hương, một cựu nữ sinh Gia Long, báo Đi Tới, số 37-38, trang 160, năm 2000).
Lời mở đầu
Nhìn lại nền giáo dục của 20 năm miền Nam dễ mà cũng khó. Dễ ở chỗ nếu chúng ta chỉ nhìn vào những thành quả đạt được của các trường Kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia Hành chánh, trường Đại Học Sư phạm, trường Y Khoa và ngay cả các trường sĩ quan Hải quân, Không quân và các trường sĩ quan Thủ Đức và nhất là sĩ quan Đà Lạt.
Càng dễ hơn khi các thành phần ưu tú nhất của nền giáo dục ấy được gửi đi du học qua sự tuyển chọn của các học bổng quốc tế, hoặc tự túc mà các sinh viên đã đạt được những kết quả đáng nể nơi xứ người.
Sau 1975, lại một dịp nữa mà không thể nào không lưu ý đến yếu tố chính trị, có dịp so sánh với chế độ giáo dục miền Bắc càng cho thấy có một khoảng cách xa về trình độ chuyên môn của hai miền.
Sự trội vượt của nền giáo dục miền Nam thật rõ ràng.
Các thành phần di tản sau 1975 và Boat people lại một lần nữa chứng minh cho mọi người thấy rằng giới các bác sĩ, dược sĩ, các ngành kỹ sư lại có dịp đọ sức và họ đã trở thành các chuyên viên trên khắp thế giới.
Sự thành công này với một số đông áp đảo như thế gây ngạc nhiên cho người bản xứ không ít. Đã có đôi lần khai tên, Mr. Nguyễn. Nhân viên hỏi thêm, ông là bác sĩ. Lại cười hãnh diện, “Thưa không”. Thưa tôi cũng có làm nhà thương, nhưng chỉ là y công thôi.
Khuynh hướng của người Việt di tản – hơi thiển cận – là cho bằng được phải thúc ép con em học bác sĩ, dược sĩ. Nơi tôi ở có 4 trường Y, nhận mỗi năm trung bình 400 sinh viên. Tỉ lệ sinh viên Việt Nam trúng tuyển là trên 10%. 40 sinh viên trên tổng số khoảng 35 ngàn người Việt! 90% kia chia cho 6 triệu dân bản địa! Đó là chưa kể số sinh viên gốc Việt ở các khoa học về răng, về mắt, về thuốc, v.v.
Sự thành công chói sáng ấy với tiền bạc dư thừa làm lóa mắt nhiều người, đôi khi gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc giáo dục và quan hệ trong gia đình.
Nhưng cái khó để hiểu thực chất nền giáo dục miền Nam trên căn bản khoa học, dựa trên con số thì hiếm. Tài liệu duy nhất mà hiện nay còn giữ được và được xuất bản ở hải ngoại là cuốnSáu năm hoạt động của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa do ông Hồ Đắc Huân sưu tập. Cuốn sách thật quý giá.
Tuy nhiên, cuốn sách chỉ đưa ra được những con số học sinh, sinh viên ở các cấp từ tiểu học, trung học đến đại học trong 6 năm. Nhưng kết quả tốt nghiệp thì lại không có, trừ kết quả của các trường đào tạo chuyên môn.
Cái khó khăn thứ hai của nền giáo dục miền Nam là có hai hệ thống giáo dục: Trường công lập và trường tư thục. Do đà dân số gia tăng, các trường tư ngày càng nhiều so với trường công. Có một sự chênh lệch rõ ràng về kết quả thi cử như một số dẫn chứng theo sau.
Trong việc giáo dục việc trồng người nó cũng một phần tương tợ như việc trồng cây.
Trồng thì phải có kết quả. 10 cây trồng thì ít ra cũng có 9 cây cho hoa trái.
Vậy mà số lượng từ 75% đến 80% phần trăm thí sinh tú tài ở các trường tư thi rớt.
Không ai hỏi xem lý do nào đưa đến kết quả xấu như thế và số phận những học sinh này ra sao? Đây là mối băn khoăn ám ảnh hầu như suốt quãng đời đi dạy của tôi.
Nếu ở trong một xã hội tân tiến, người ta sẽ đặt ra vấn đề chất lượng giáo dục đào tạo – đào tạo để làn gì? Đào tạo cho ai? Và về mặt xã hội dân sự làm thế nào giải quyết công ăn việc cho những người thi rớt trên? Chuyên môn không có, chưa ra ông mà cũng chẳng ra thằng, thợ cũng không phải thợ.
Rõ ràng có một lỗ hổng rất lớn trong nền giáo dục miền Nam. Đào tạo mà không có tính thực dụng, không có chuyển hướng theo khả năng của người thanh niên. Đào tạo cái đầu mà không nghĩ đến cái tay.
Đáng lẽ ngay từ khi hết bậc tiểu học đã phải chuyển hướng một số học sinh học nghề, học kỹ thuật, học làm thợ là chính, kiến thức chỉ là thêm vào.
Tình trạng lạm phát học sinh trình độ tú tài thi rớt đáng lý trở thành một gánh nặng cho xã hội thì may thay đã có một chỗ chứa. Đó là các quân trường từ lính đến hạ sĩ quan và sĩ quan, do nhu cầu của chiến tranh. Nói một cách thực tế thì đây là những thành phần hữu dụng và trở thành những người lính nồng cốt, những sĩ quan ưu tú của quân lực VNCH. Một sĩ quan thì ít nhất cũng có trình độ kiến thức hết bậc trung học cả về khoa học đến ngoại ngữ. Thật là trong cái rủi có cái may.
Trên đây là mấy nét phác họa về nền giáo dục miền Nam. Nền giáo dục ấy tuy nhẹ về phần thực dụng cũng như thể dục lại nặng về phần trí dục và cũng chú trọng nhiều đến phần đức dục, nhất là ở những năm tiểu học. Phải chăng đó chính là những nét đẹp nhất của nền giáo dục miền Nam?
Phần sau đây, với những kinh nghiệm của chính bản thân tôi vẽ lại chân dung nền giáo dục ấy qua quãng đời đi học và dạy học.
Phần Chính đề
Sự tự trách cứ ở trên nói lên một tấm lòng còn chút tình con người mà ở đâu còn chút ấy thì tương lai con người còn được thắp sáng.
Phần tôi đã nhiều lần phản bội thầy như thế nên tôi dễ chia xẻ với 4 câu thơ trên.
Một lần khi tôi chạy xe Lambretta trên đường Phan Thanh Giản, lúc sắp quẹo vào Ngã Bảy, Lý Thái Tổ, chợt tôi thấy thầy của tôi dạy Pháp Văn – vẫn áo vét trắng, quần trắng, mũ phớt, dạy tôi ở trường Họ Saigon dành cho học sinh di cư năm 1956, thầy đang ì ạch đạp xe giữa buổi trưa nắng. Thầy tôi mặc áo vét trắng, mũ phớt, giầy tây mà đạp xe đạp- trông nó thế nào ấy! Nó cho người ta có cảm giác như lỗi thời đến tội nghiệp trong một sự tương phản ‘giấy rách nhưng vẫn giữ lấy lề’.
Đấy là bức tranh toàn cảnh phần đông nghề thầy của miền Nam giai doạn 1955-1960. Phần đông các thầy còn đi xe đạp, nhưng lại mặc áo vét. Chính cái áo vét này nó gây sự chú ý của mọi người. Cái áo vét đó tượng trưng cho một thời kỳ thoái trào giữa cũ và mới.
Ta gọi là buổi giao thời vậy.
Trong chuyến tàu chót đó, cái áo vét như một vật dư thừa cuối mùa, nhận đủ oan trái của lớp người mới. Có lẽ may ra chỉ có thầy Vũ Hoàng Chương là vẫn có phong thái ung dung ngồi xích lô đạp đến trường.
Một nghề được coi là cao quý nhất, được nhiều người quý mến nhất trên lý thuyết, trên sách vở, trong sách Quốc văn giáo khoa thư, trong các bài học của thầy cô giáo bậc tiểu học. Nhưng về mặt thực tế xem ra bị bạc đãi nhất.
Hầu như người ta có cảm tưởng làm nghề thầy/cô giáo là đồng thời chấp nhận một cuộc sống đạm bạc. Một thầy, một cô, một chó cái!
Đó là sự thanh cao trong cảnh túng quẫn. Người ta nói như thế. Thầy ở đâu cũng có thể nghèo. Thời nào cũng vậy.
Thời lều chõng đến thời xe đạp.
Thật bất nhẫn, tôi không dám tiết lộ hết những cái nghèo đó ra đây.
Khi vào trường đời, tôi cũng đã gặp khá nhiều đồng nghiệp chấp nhận một cuộc sống mà sự đạm bạc trở thành một thứ đạo đức nghề nghiệp.
Lần ấy, tôi đã không đủ can đảm dừng xe lại chào thầy lấy một tiếng mà lại vội đi thẳng. Đáng lẽ tôi phải làm như người xưa, dừng xe lại và thưa,
“Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?”(1)
Quốc Văn Giáo Khoa Thư, Trang 53.
Hình ảnh thầy dạy Pháp văn gợi nhớ đến một số thầy khác như thầy Huy Kinh, thầy Nguyễn Phố. Thầy Huy Kinh, đầu chải tém ra đằng sau, mặt mũi khắc khổ. Thầy luôn luôn trịnh trọng thắt nơ trong bộ vét trắng, thong thả gác chiếc xe đạp, khóa cẩn thận trước khi vào lớp.
Mặc âu phục, đi xe đạp là nếp sống văn hóa Tây còn sót lại chăng?
Vào lớp, thầy giảng Kiều thao thao bất tuyệt mà bọn học trò di cư ngỗ nghịch không nghe.
Người ta có cảm tưởng dưới kia không phải học trò mà là ‘Một bầy thú trước bảng đen!’
Sự khao khát truyền đạt, thiện chí có dư của thầy, thầy giảng mà như thể đang diễn thuyết, sự ăn mặc trang trọng nghiêm chỉnh của thầy, như vang bóng một thời còn sót lại, đã không được học trò đón nhận. Giảng mà như một cuộc độc thoại, mình nói mình nghe! Có cái hoàn cảnh nào bạc bẽo hơn không? Rất may, cái cảnh này không phải là hoàn cảnh phổ biến.
Tuy nhiên, hình như có một thói quen giảng bài rất trái sư phạm của một số thầy lớn tuổi. Khi giảng các môn Việt Văn và môn Sử địa – bị cuốn hút vào dòng tư tưởng – các thầy giảng như thể diễn thuyết. Người ta không thể diễn thuyết nhiều lần trong một ngày, trong cả năm. Đây là điều người ta gọi là bán cháo phổi. Dạy riết đến độ phổi nóng ran lên.
Theo tôi đây là là một đặc điểm rất nên ghi nhớ lại. Tôi còn hình dung ra được thầy dạy Việt Văn trường Văn Lang của ông Ngô Duy Cầu hồi mới di cư vào Nam, cổ thắt cà vạt – trời nóng, hơi người, lớp học mái tôn, quạt mát quạt hơi nóng – người thầy nhễ nhãi mồ hôi, bất chấp mọi chuyện, thầy vẫn giảng oang oang như chỗ không người.
Nghĩ lại, các thầy của tôi những năm ấy sao gian truân thế! Vì cái gì nhỉ? Chẳng lẽ chỉ vì miếng cơm manh áo? Hay vì nhẫn nại chớ thời cho một vận may chính trị?
Trên thực tế, nghề thầy trong thời diểm ấy là nơi trú ẩn của nhiều thứ: Chờ thời cũng có, ẩn náu dấu mình cũng có, dạy học qua ngày cũng có. Người chuẩn bị làm bác sĩ, dược sĩ, luật sư cũng đi dạy. Chữ đúng nhất trong trường hợp này là vừa đi dạy, vừa đi học. Vừa cầm phấn vừa cầm bút.
Duyên Anh, Bàng Bá Lân, Trần Bích Lan, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Trần Phong Vũ, Phạm Việt Tuyền, Chu Tử và nhiều người khác. Ai đích thực là người thầy?
Hỏi ra ai cũng có lúc làm thầy.
Thế thì có thể nào phân biệt được nghề thầy như một cái nghiệp và nghề thầy như một nơi tạm trú? Hay là chỉ có thầy dạy trường công mới là thầy?
Dù là thầy loại nào, tôi vẫn thương các thầy này, xót xa cho sự bạc bẽo của nghề dạy học. Vậy mà sau này tôi lại tình nguyện chui đầu vào như một kẻ đi lộn chuồng.
Thế nào là một ông thầy nhỉ? Tôi sẽ có câu trả lời ở phần sau.
Nhưng tôi có thể nói trước bây giờ là phần đông những đồng nghiệp của tôi, những người được đào luyện chính quy, họ xứng đáng là ông thầy. Ít lắm là phần đông thấy họ hiền lành.
Họ có cái phong cách là ông thầy, dù không biết bề trong thế nào.
Và nay, nhìn lại 20 năm miền Nam, tôi vẫn thấy mình hãnh diện vì đã được học hành, được lớn lên, trưởng thành trong một môi trường giáo dục tốt đẹp.
Thiển nghĩ, nhiều học trò có món nợ ông thầy trả không hết, Không thầy đó mày làm nên. Ca dao chẳng nói đó sao:
“Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.”
Kinh nghiệm thứ hai của tôi thì oái ăm hơn.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn không biết phải đối xử thế nào cho phải. Hồi mới di cư vào Nam, học một trường tư ở Chợ Lớn là trường Phong Châu, tôi nhớ là lớp 5ème. Tôi học một thầy sử địa, người Bắc; cả trường chỉ có hai thầy trò lẻ loi là người Bắc. Phần còn lại cả trường đều gọi cảnh sát là ‘Mã tà’ cả. Thầy trông hiền lành, nghiêm chỉnh, giảng bài bằng tiếng pháp rất lưu loát. Tôi cứ nghĩ thầy phải giỏi lắm.
Là học trò di cư khổ lắm. Khổ hơn nữa là trong lớp chỉ có mình tôi như thế – theo đạo, di cư, học trễ – 18 tuổi đầu mới ngồi lớp tiếp liên với thầy Trần Văn Quới, cũng là thầy dạy tác giả Nguyễn Tấn Bi, học trước tôi năm bảy năm.
“Hồi cách đây trên nửa thế kỷ, sau khi tốt nghiệp lớp năm, tức là đậu xong bằng Sơ học yếu lược (Certificat d’Etudes Primaires Complémentaires Indochinoises), học sinh tỉnh Chợ Lớn bọn tôi có giỏi giang cách gì, cũng phải lên một lớp chóp bu cuả bậc tiểu học, bấy giờ gọi là lớp tiếp liên, nói nôm na là lớp dự bị trung học.. […]
Thuở đó mà nghe nói tới dân premiere année hay deuxièmer année là ngon quá mạng giang hồ, vì con cái quan quyến, cha chú mới học tới đó chớ còn dân ngu khu đen nhu bọn tôi, là cả cái gì xa lạ lắm. […]
Thầy dạy duy nhất cho lớp nầy từ khi mở ra cho đến khi giải tán là Thầy hiệu trưởng Trần Văn Quới, địa phương quen gọi là ông Đốc Quới… Thầy Quới dạy là phải biết. Tiếng Pháp học grammaire kỹ hơn trước. Sử địa cũng lạ hơn trước vì chỉ học lịch sử và địa lý của nước Pháp. Vẽ bản đồ các tỉnh thành của nước pháp giống hình lục giác, tô màu từng tỉnh khác nhau. Nghĩ cũng tức cười, xứ sở mình bao nhiêu tỉnh không biết hết, chỉ biết các tình miền Nam…[…]
Năm cuối cùng ở tiểu học, đưọc học với thầy Đốc Quới ai cũng phải nhận thầy là nguời kinh nghiệm, nhiều bản lảnh, và nhất là cái lối giảng bài của thầy thì trời sầu đất thảm lẳm. Có nghĩa là thầy giảng và dịch thật rõ ràng để tránh cho học trò không lầm lẫn khi viết tiếng Tây.”(2)
Vào khoảng sau 1970, tôi có dạy luyện thi môn triết tại trường Trường Sơn, đường Lê Văn Duyệt. Hiệu trưởng là nhà văn Nguyễn Sỹ Tế.
Lớp học buổi tối từ 7 giờ đến 10 giờ. Người học thường là công chức, quân nhân hoặc học sinh muốn học thêm. Thành phần hỗn tạp. Trình độ cao thấp không biết được. Một bữa nọ, tôi nhận ra người ngồi ngay đầu bàn ở dãy cuối cùng lại đúng là thầy Sử địa năm nào của tôi đang ghi ghi chép chép.
Tại sao thầy không kiếm một chỗ ngồi ở một góc khuất nào kín đáo hơn để tôi không nhận ra thầy? Tại sao thầy lại vô ý chọn ngồi đầu bàn ngay lối đi lên xuống của tôi?
Tại sao thế? Thầy đặt tôi vào một hoàn cảnh khó xử. Tôi hầu như không tin vào mắt mình. Nhưng nhìn kỹ lại đúng là thầy mình chứ không thể nhầm được. Tôi hơi choáng trong nghịch cảnh thế này. Nhưng thầy vẫn có vẻ thản nhiên ngồi chăm chú nghe tôi giảng. Giả dụ thầy nhận ra tôi, thầy có tiếp tục đi học nữa không?
Sau này, tôi nghĩ thầy lỡ thời bất đắc chí phải đi dạy nên nghĩ nay phải có thêm bằng tú tài II để vào đại học? Kiến thức thầy có thừa, tiếng Pháp của thầy đi chấm thi tú tài II, ban C cũng dư. Vậy mà thầy ngồi kia. Thầy học tôi được cái gì? Ai dạy ai? Chắc chắn là thầy không nhận ra tôi. Nhưng chắc chắn là tôi nhận ra thầy.
Lần này thì tôi không thể nói, “Tôi là Carnot đây.” Tôi phải nói thế nào?
Tôi chỉ thấy hoàn cảnh rất oan trái của một số thầy làm nghề dạy học.
Dáng đứng uẩn khuất của thầy dạy sử địa của tôi không dễ mà thấy được. Cho đến bây giờ tôi vẫn tự hỏi Thầy là ai?
Nhưng ít ra cũng là cái gương hiếu học đáng quý của người Việt Nam mà thầy tôi là một trong vô số những người ấy.
Nếu được phép nói thì, “Thưa thầy, con vẫn kính trọng thầy.”
Chuyện như thế cũng xảy ra với bạn bè. Không quan trọng lắm. Lần này, tôi dạy hai lớp luyện thi cho học trò trường tây tại Trung tâm Cao Bá Nhạ, đường Cao Bá Nhạ để thi tú tài Việt Nam. Học trò đều là lớp con cái nhà gia thế, có tiền của. Trình độ đồng đều, có phần ưu thế hơn học trò trường Việt về các môn Anh văn, Pháp văn và kiến thức tổng quát. Phải chăng học trò trường Pháp có một truyền thống học đường? Con gái thường mặc áo chemise, quần dài hay mặc đầm, ít mặc áo dài; tưởng họ ngổ ngáo, xem ra lại tỏ ra lễ phép hơn học trò nhốn nháo trường tư Việt.
Điều này tôi phải nói thật như vậy. Sự kính nể và chăm chú nhìn rõ trên khuôn mặt học trò.
Tâm tình chúng cũng khác lắm.
Carte chúc Noel, sinh nhật mà ít học trò trường Việt nào làm. Đón ở cửa lối ra để chào thầy ra về. Đi qua mặt một học trò lúc vào lớp, có thể có lời chào nhẹ, kín đáo, chào thầy. Hỏi một thắc mắc chưa hiểu, hỏi một danh từ tiếng Pháp tương đương với chữ tiếng Việt lúc tan học mà ít khi nào học trò trường Việt chặn thầy để hỏi. Tôi đã nhận được nhiều thái độ trân trọng như thế. Học trò trường Việt thụ động hơn hay chăng? Có lần tôi nhận được thư một học trò viết,“Thưa thầy, con thấy tội nghiệp thầy quá, tại sao quần tây của thầy rách gấu mà thầy vẫn mặc.” Nó hiểu lầm tôi nghèo chắc? Buổi học sau tôi nhìn em ấy, em như thản nhiên không phải là tác giả bức thư ấy. Nếu có ai thắc mắc, nó viết tiếng tây hay tiếng việt? Thưa, tiếng Việt.
Sau này, tôi rất hối tiếc không giữ lại những lá thư kiểu này. Nghề thầy có rất nhiều kỷ niệm mà phần lớn là kỷ niệm đẹp cả.
Nhưng trong số học trò ấy, có Đại úy Hưng, người bạn cùng học với tôi từ Hà Nội và di cư vào Nam, đi lính, nay có thời giờ học thêm tú tài II. Tôi không nhận ra anh trong đám đông ấy. Nhiều khi, học trò ngồi dưới, tưởng tôi nhìn, hoặc chú ý tới người này người kia. Trong nhiều trường hợp, nhất là lớp đông, tôi có nhìn, nhưng không nhìn thấy ai cả. Phần anh, nhận ra tôi, nhưng không dám xưng danh tánh. Học được ít lâu, anh mới đủ can đảm gặp tôi. Sau đó, tôi đã hết lòng chỉ dẫn riêng cho Hưng các đề thi, các chủ đề chính thường được hỏi trong kỳ thi tú tài II, ban C. Hưng đỗ. Cả hai chúng tôi đều chia xẻ niềm vui chung đó, trong đó có vợ con Hưng.
Còn nỗi mừng nào hơn. Nghề thầy vui ở chỗ ấy mà người khác không có được.
Cũng lại thêm chuyện lính tráng. Có lần đi coi thi ở miệt Rạch Giá, có một ông lính để chình ình một trái lựu đạn trên bàn dọa ai không biết. Mấy cô giáo sợ run lên, lấm lét. Học trò cũng vậy. Tôi cũng sợ lắm chứ. Nhưng cũng bạo dạn đến gần anh lính nói nhỏ, “Anh làm ơn cất đi dùm thứ kia không các em nó sợ quá.” Tôi không nhớ là mình có đái ra quần không. Anh nhìn tôi thăm dò và có vẻ thách thức nói, “Lính mà thầy!” Thật ra, tôi có thể lén lén về văn phòng báo cho ông chánh chủ khảo Hội đồng giám thị. Vài phút sau, quân cảnh sẽ tới.
Quân cảnh vào thì có thể lớn chuyện có thể có án mạng không chừng. Ít nữa thì anh lính đáng thương cũng bị còng tay với những ngày trọng cấm.
Nói không được, tôi lặng lẽ bỏ ra ngoài hành lang nhìn trời, nhìn đất, đứng ì ra đó. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại ứng xử thụ động như vậy.
Anh lính ngồi chán không dọa ai được, cất lựu đạn, nộp giấy trắng, rồi thong thả bỏ thi ra về.
Anh lính ấy không hiểu có kịp về khoe với người tình bữa tối đó không? Anh vừa dọa được một tên thầy giáo chết nhát, mặt hắn xanh như tầu lá, miệng run lẩy bẩy xin anh cất lựu đạn đi.
Biết đâu một viên đạn vô tình nào đó cất anh đi nhẹ nhàng. Đời lính mà thầy. Tôi nhận tôi là một thằng thầy giáo chết nhát, còn anh, giờ này anh ở đâu? Thầy giáo đôi khi đặt tình người trên cả nguyên tắc. Chắc là như thế.
Cả đời đi coi thi, nếu động tý bắt học trò gian lận thì sợ không có đủ giấy để ghi. Chỉ có một lần cấm thi (năm đó thôi) một em nữ sinh ở Phan Thiết một cách bất đắc dĩ, ngoài ý muốn. Vậy mà lòng vẫn ân hận. Tát một em nữ sinh ở một trường tư Khiết Tâm trong lúc nóng giận. Làm sao quên? Mắng một em nữ sinh trường Văn Hóa, đường Gia Long, “Trông cô cũng xinh xắn sao mà ngu thế.” Chuyện nhỏ như thế mà cũng không quên thì là nghĩa lý gì? Đó là hơn 50 năm trước; Ứng xử đó ngày nay ở xứ này chắc phải đi tù hay it nhất cũng phải trả lời trước ban Giám hiệu hay Hội đồng học chính.
Rất may, trong nhiều năm dạy trường công, tôi chưa có dịp mắng một em nữ sinh nào cả.
Làm thầy mà không có cái tình người thì không nên chọn nghề thầy.
Nghề thầy còn có một thử thách lớn lao – thử thách suốt đời – mà tôi tạm gọi là Hành lang của sự thử thách (Corridor de la tentation: lấy lại một ý của một ông vua muốn kén chọn một người quản lý tốt nên cho họ đi qua một hành lang hẹp, chứa đầy kim cương vàng bạc. Ai cũng vội nhét cho đây túi tham. Chỉ có một người không. Và ông này đã được chọn làm quản lý).
Thầy giáo nào mà đã không trải qua hành lang thử thách này?
Từ trường học đến trường đời là một bước nhảy. Và sự chuẩn bị cho bước nhảy là một điều không thể thiếu được. Ai chuẩn bị cho bước nhảy quan trọng và thiết thân ấy? Thưa trường học với thầy cô giáo, uốn nắn răn đe, nhẹ tay cũng có, khắt khe cũng chẳng thiếu trong suốt mười mấy năm, hết thầy cô này đến thầy cô khác.
Mỗi ngôi trường với thầy cô giáo – từ mẫu giáo, tiểu học, trung học đến đại học – là một môi trường lành mạnh, một mối giao cảm đầu đời, giúp người trẻ vào đời.
Và ở xã hội miền Nam, ông Diệm đã quyết tâm coi việc giáo dục là hàng đầu. Tiếp nối nền Đệ nhị Cộng hòa cũng thế.
Chỉ một lần thôi, lần này thôi, những ai đã từng có hạnh phúc được lớn lên và ăn học ở miền Nam. Hãy tỏ ra biết điều, cúi đầu cám ơn miền Nam đã cho chúng ta một tuổi trẻ, một sức sống, một tương lai đầy hứa hẹn.
Ngày hôm nay, nhiều người đã nên ông nên bà, hãy bày tỏ trong thầm lặng cũng được một lời cám ơn mà không lúc nào là thừa.
Và sau đó, hàng loạt giáo sư trẻ ra trường lan tỏa ra khắp mọi miền đất nước như men trong bột. Đất nước đã đầu tư đến một phần ba cuộc đời mỗi người tuổi trẻ trong việc đào luyện với một ý thức kỷ luật cao độ trong các trường công lập trước khi người trẻ tuổi vào đời.
Xin trích đăng một vài chứng từ của giáo sư Dương Thiệu Tống, đã một thời như thế, thầy giáo luôn luôn muốn học trò mình giỏi, nhưng lại khắt khe vô cùng.
Nó cho thấy thầy giáo cho điểm, lời phê rất là ngặt và khó khăn.
Môn quốc văn mà điểm nhất lớp cũng chỉ có 7 điểm (7 điểm trên 10). Thứ hạng là I trên 38! Ngược lại điểm rất cao, nhưng lời phê thường chỉ có một chữ, “Được”, ít khi có chữ “Khá”, nhiều khi là chữ “Thường”.(3)
Lời phê của Thầy/Cô trong Thành tích biểu của một học trò trường Trương Vĩnh Ký. Nguồn: DCVOnline.
Và giáo sư DTT đặt ra vài câu hỏi gợi ý:
“Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm ra giải đáp.”(4)
Trong đó giữa thầy-trò có một tương giao tin tưởng hỗ tương mà ngày nay, tôi cảm nghiệm cho thấy không thể tìm thấy trong môi trường XHCN được.
Tôi khẳng định không có tin tưởng lẫn nhau, không thể có giáo dục
Sau 1975, những điều tôi nói vừa rồi là có cơ sở. Một nền giáo dục chói sáng của miền Nam đã tắt. Tôi bắt đầu sợ học trò, nhất là học trò lớp nhỏ vì chúng vô tình. Tôi bắt đầu đóng kịch. Tôi nhìn xuống đám học trò như ẩn khuất bóng dáng một tên công an trong đầu chúng!
Vì thế nay điều tôi nghĩ và điều tôi nói ra không phải là một. Từ nay, cứ coi như xem khỉ dạy người! Chúng ta trở lại vói các suy nghĩ thuần giáo dục thôi.
Giữa các giai đoạn từ tiểu học lên đại học thì giai đoạn trung học là giai đoạn chuyển tiếp quan trọng nhất. Phần đông học sinh phá ngang, bỏ học hay tiếp tục học lên trên tùy thuộc vào giai đoạn này vì không qua khỏi rào cản thi tú tài phần một và phần hai.
Các cô học trò của tôi, như Võ Quách Tường Vy, gọi lớp đệ tứ là năm ‘giao mùa’. Cô Võ Thị Ngọc Dung thì gọi đó là một năm ‘bản lề’. (Xin xem phần trích dẫn ở phần sau). Các cô giỏi thật.
Nhưng tôi xin bổ túc thêm gọi đó là những năm tháng ‘chuyển mình’. Chuyển cả thể xác lẫn tâm hồn.
Các cô không còn như trước nữa. Có sự giao động của một khủng hoảng tuổi thanh xuân. Vậy mà các cô cậu nay phải lo âu đối diện với tương lai trước thi cử! Tuổi thanh xuân mất đi một phần hào quang quyến rũ của nó vì thi cử.
Rào cản thi cử này đối với tôi là bất công nhất và lãng phí nhân tài cũng vì nó. Tư tưởng này ám ảnh tôi trong suốt những năm tháng ấy trong nỗi bất lực mà trong tầm tay, tôi chỉ có khả năng cho rộng điểm ở các kỳ thi.
Làm thầy giáo, có thể tôi chả có điều gì tự hào về mình.
Chỉ có niềm tự hào nhỏ là lúc đi chấm thi, lúc tôi phóng tay cho những thí sinh may mắn rơi vào tay tôi, và có thể nhờ đó họ thi đỗ dưới con mắt nhìn có vẻ khinh miệt của đồng nghiệp.
Nhưng những điều trình bày ở trên vẫn chưa có câu trả lời thế nào thì được coi là ông thầy giỏi và được học trò quý mến và nhớ mãi?
Thầy giỏi, dạy hay, ăn nói lưu loát là một điều tốt, nhưng đủ chưa?
Nhiều thầy dạy hay đã có thể lôi cuốn được đông đảo học trò và nổi tiếng khắp trường được cả đồng nghiệp nể trọng. Thầy dạy hay có phải là yếu tố chính giúp học trò thi đậu? Chắc hẳn là có một phần không nhỏ học trò thi đậu là nhờ thầy dạy hay, dể hiểu, dễ nhớ.
Làm sao có thể phủ nhận tài dạy học của anh em các thầy Bùi Hữu Sủng, Bùi Hữu Đột các năm 1955-1960! Thằng ngu nhất học thầy Bùi Hữu Đột cũng có thể nghuệch ngoạc vẽ bậy được cái phương trình bậc nhất. Thằng dốt đặc cán thuổng nhất về Pháp Văn học thầy Bùi Hữu Sủng cũng có thể viết được “Je là tao, tu là mày, Ils là là lũ chúng nó.”
Thầy Lưu Ngọc Linh, dạy Pháp Văn ban C, sinh ngữ một Chu Văn An là trường hợp độc nhất vô nhị.
Thầy được ông hiệu trưởng nể vì thế nên đi dạy thất thường bất kể giờ giấc, đến trễ. Nếu tôi còn nhớ. thầy có nhiều cái chướng. Nhưng mỗi cái chướng của thầy trở thành, “il est unique dans son genre.” Sự độc đáo của riêng thầy.
Đang dạy thầy đòi uống la de! Và học trò đồng lõa với cái chướng ấy, vội vã cầm tiền đi mua lade về cho thầy. Sau này tôi cũng học đòi bắt chước những cái chướng ấy mà không xong.
Chưa ai có thể sánh bằng thầy Lưu Ngọc Linh. Thầy nói, thở ra văn chương mà không cần suy nghĩ, không cần cầm bút. Mỗi câu Pháp Văn thầy nói ra như rót vào tai, học trò vội ghi ghi chép chép.
Ngựa chứng trong sân trường không phải là học trò mà là thầy.
Từ cách đi đứng, cách ăn mặc, cách hút thuốc, cách lái xe hơi như một tài tử ciné chứ không phải một ông thầy đi dạy. Sau này, thầy không dạy nữa và không còn ai nhắc nhở xa gần tới thầy.
Nhưng cũng đã có một thời, các thầy giọng tiếng Bắc trở thành những ngôi sao trên vòm trời các lớp luyện thi, các trường trung học tư thục? Các thầy lớp trước có thầy Ngô Duy Cầu, thầy Bùi Hữu Đột, Bùi Hữu Sủng, thầy Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh, Các thầy hái ra tiền.
Lớp trẻ hơn có các thầy Phạm Kế Viêm, thầy Nguyễn Xuân Nghiên, thầy Nguyễn Văn Phú, thầy Vũ Khắc Khoan, thầy Trần Bích Lan – Nguyên Sa. Và nhiều thầy dạy toán, lý hóa không nhớ hết. Nhưng nay ai còn nói chuyện ân nghĩa với các thầy trên? Ai còn để lại dấu ấn thầy-trò?
Lại còn câu hỏi ai xứng đáng là đệ tử của các thầy trên?
Xin thưa là phần đông các học trò này thường là yếu kém về các môn học này nên cần đến các thầy loại này.
Các thầy trên giỏi thì có giỏi, nhưng mới chỉ là đào tạo chữ nghĩa, xây dựng kiến thức chứ chưa phải là đào tạo con người.
Học trò giỏi đôi khi không cần đến các thầy đó!
Các học trò trường công lập
Thầy trường công và nhất là học trò trường công thì khác xa về trình độ học vấn so với học trò trường tư. Một đằng trình độ tương đối đồng đều, có chọn lọc khi thi tuyển vào lớp đệ thất. Một đằng hỗn tạp, giỏi thì ít mà dở thì nhiều, kỷ luật cũng kém. Nói chung kém mọi mặt.
Cho nên tỉ lệ thi đỗ ở trường tư chỉ 15% đến 30% tùy trường. Tỉ lệ thi đỗ ở trường công từ 75% trở lên.
Sự đồng đều ấy cho thấy không có nạn chạy chọt, đút lót để cho con vào đệ thất trường công. Có những gửi gấm rất con người dù người khó tính đến đâu cũng phải chấp nhận. Như con bác cai trường, con thầy giám thị. Thú thực, chưa một ai gửi gấm tôi trong các kỳ thi đệ thất; gửi ai khác tôi không biết, dù chỉ một lần.
Điều đó chỉ ra tính cách nghiêm chỉnh của các kỳ thi, dù là thi đệ thất. Các kết quả dưới đây tự nó nói lên điều ấy mà không cần một lời biện minh.
Nhưng ngoài việc học giỏi, đừng quên một điều không kém quan trọng: Có kỷ luật. Nhờ có kỷ luật mà thầy-trò làm nên chuyện. Không thuộc bài phải thuộc bài. Không thể lười, muốn lười cũng không được. Trường nào kỷ luật kém thì việc học cũng xa sút,
Dưới đây xin được nêu ra vài bằng chứng cụ thể.
Trong giai phẩm xuân Gia Long 1968-1969 cho thấy một vài số liệu sau đây:
Kỳ thi tú tài I năm 1968, năm Mậu Thân có 89,73% trúng tuyển trong tổng số 760 học sinh dự thi, trong đó có 16 thí sinh đậu hạng ưu, 98 đậu hạng Bình và 198 đậu hạng Thứ.
Kỳ thi tú tài phần II năm 1968 có 79,10% trong tổng số 536 học sinh dự thi, trong đó có 7 đậu ưu, 38 đậu Bình và 114 đậu Bình thứ. (Bình thường thì tỉ lệ thi đậu của tú tài II thường cao hơn tỉ lệ của tú tài I, vì đã được sàng lọc ở tú tài I như trường hợp trường Petrus Ký).
Trong số đó, 159 thí sinh đậu Ưu và Bình trong cả hai kỳ thi được nhà trường thưởng một mề đay bằng vàng tây trên đó có khắc G&L lồng vào nhau.(5) Bà Trần Thị Tỵ, hiệu trưởng trường nữ trung học Gia Long, trường nữ lớn nhất Sài Gòn trước 1975; trong bài trả lời phỏng vấn của một cựu nữ sinh Gia Long, bà Võ Thị Hai, bà hiệu trưởng cũng nhìn nhận rằng:
“Trường học là nơi phải đạt mục tiêu hàng đầu là giáo dục học sinh, có nghĩa là phải rèn luyện để học sinh có đạo đức, có kỷ luật, có trật tự. Phải có trật tự thì các em mới chú tâm nghe giảng, mới có thể học giỏi được. Và cũng phải rèn luyện để các em đi dần đến ý thức tôn tôn trọng kỷ luật một cách tự giác.”(6)
Nói như thế không có nghĩa là không có ngoại lệ đáng tiếc ngoài dự liệu của nhà trường và lòng mong mỏi của ban giám hiệu nhà trường.
Sân trường Gia Long 1931. Nguồn: tuxtini.com
Trường Gia Long, vào niên khóa 1971-1972, học sinh lớp 12 C1 có ra một tờ báo Xuân.(7) Chỉ tiếc một điều, trong số báo Xuân ấy, có một đôi câu được gọi là ‘ranh ngôn’ nhằm chế diễu các cô giám thị như sau:
“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời giám thị mà thương học trò.”
(Ranh ngôn một)
“Nhỏ không học, lớn làm giám thị.”
(Ranh ngôn hai)
“Ở đời có ba điều đáng tiếc
Một là việc hôm nay bỏ qua
Hai là đời này chẳng học
Ba là thân này lỡ làm giám thị.”
(Ranh ngôn ba).
Ba Ranh ngôn này nói dỡn chơi với nhau cũng không nên. Vậy mà nó được chính thức đăng trong tờ báo Xuân và sau đó bị tịch thu và tiêu hủy. Phần mỗi cô trong ban biên tập, học bạ mục hạnh kiểm với hai con số zéro.
Tôi không biết bài viết này có được đăng trên Kỷ yếu Gia Long không? Giọng điệu bài viết nay viết lại vẫn giữ nguyên cái ác ý của mấy chục năm về trước.
Đó là điều không nên thứ hai.
Thầy cô giám thị là khổ, một cổ đôi ba tròng. Bao nhiêu tiếng ác đổ lên đầu thầy. Giả dụ chỉ vắng giám thị chỉ một ngày, trường sẽ loạn lên ngay.
Tôi đã từng đi dậy tư nhiều trường. Thầy giáo phải đóng thêm vai giám thị là một nỗi khổ tâm không ít.
Nhất là phần các nữ sinh, phần đức dục trường nào cũng quan tâm kỹ lưỡng. Các nữ sinh phải ăn mặc cho kín đáo nên có việc kiểm soát áo lá. Không có áo trong là không được. Nóng cũng phải mặc. Trước không được và ngay bây giờ cũng có thể không được nữa.
Từ đệ tứ trở lên là các cô đã bắt đầu trổ mã, cứ ngồn ngộn lên. Các cô đi học đâu có phải là dịp trình diễn phái tính?
Các cô hẳn là khó chịu khi từng cô phải đi qua mặt cô giám thị.
Nhưng cô giám thị đã thay mặt nhà trường, nhất là thay mặt cha mẹ các cô uốn nắn cho các cô vào khuôn phép, nề nếp cho nên người.
Các cô muốn nên người hay muốn mất nết? Xin thưa với các cô rằng: kỷ luật là xương sống của một nền giáo dục.
Ngay tại các nước tiên tiến như bên này thì cha mẹ có tiền đều muốn gửi con vào những trường có kỷ luật nghiêm minh.
Và đây là một câu chuyện ám ảnh khôn nguôi của một thời sinh viên. Tôi xin kể lại để thầy rằng ngoài cha mẹ, các thầy cô giám thị rất cần cho chẳng nhưng việc học hành mà còn có vấn đề đào luyện con người.
Chỉ vì một chút bồng bột tuổi trẻ và một chút khờ dại, cô nữ sinh đáng thương dưới đây đã tuyệt vọng tự hủy hoại đời mình và gây nõi đau khổ không bút nào tả xiết cho cha mẹ cô.
Ngay bạn bè trong lớp của tôi cũng không biết chuyện này, cả trường đại học cũng không biết luôn. Tôi nhớ, đó là năm thứ hai đại học. Tức là năm 1961-1962. Một cô nữ sinh Gia Long, lớp đệ nhị, phải lòng một ông bạn của chúng tôi. Cô đã dại đột bỏ nhà ra đi lên Đà Lạt. Khoảng một tuần sau, anh bạn tính mọi cách đưa cô về, gửi chùa Linh Sơn. Chùa không nhận. Tôi cũng không bao giờ hỏi vào chi tiết. Anh bạn ấy cũng không thể nào ngờ diễn biến câu chuyện lại bỗng chốc trở thành bi kịch như thế. Tưởng cô đã ưng thuận trở về gia đình. Trên đường về đến Định Quán nghỉ ăn trưa. Trong một nỗi tuyệt vọng chỉ một mình cô biết, cô đã nhảy vào đầu xe. Người lái xe là một bà đầm. Bà quay đầu xe trở lại Đà Lạt. Trong xe có ba người. Theo anh bạn, hình như cô chưa chết hẳn, còn ngắc ngoải. Nỗi kinh hoàng làm anh như người mất trí luôn. Nhưng rồi một người đã chết. Cô gái bất hạnh. Về đến Đà Lạt, anh bạn cho tôi và hai người bạn khác biết chuyện này để lo liệu, liên lạc với gia đình cô gái. Tôi cũng không còn nhớ tên cô gái nữa. Khuôn mặt cô lúc ấy tôi cũng thật sự không dám nhìn. Có nhìn cũng không rõ, vì ánh sáng mờ mờ của nhà xác. Chỉ biết, đó là nỗi kinh hoàng. Kinh hoàng.
Cho đến nay, hầu như tất cả sinh viên đại học Đà Lạt đã không biết chuyện này, nay nói ra một lần rồi thôi.
Chúng ta hãy tưởng tượng đi, tại nhà xác ở Đà Lạt, một cô gái còn trẻ măng, áo dài trắng, quần trắng đẫm máu nằm thõng thượt trên ghế đá nhà xác Chúng tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh này. Còn cảnh nào đau lòng hơn thế nữa!
Học trò trường Petrus Trương Vĩnh Ký.
Sau đây là thành tích học tập niên khóa 71-72
– Tú tài I:
Ban A: dự thi 77, trúng tuyển 71, với 2 Ưu, 112 Bình, 17 Bình thứ, tỉ lệ thi đậu là 92%.
Ban B: dự thi 309, trúng tuyển 285 với 1 Tối ưu, 93 ưu, 62 Bình, 92 Bình thứ. Tỉ lệ 93%.
Ban C: dự thi 12, trúng tuyển 10 với 2 Bình thứ, tỉ lệ 83%
– Tú tài II:
Ban A: 101 dự thi, trúng tuyển 101 với 2 Ưu, 10 Bình, 25 Bình thứ, tỉ lệ 100%.
Ban B: 419 dự thi, trúng tuyển 419 với 11 Ưu, 53 Bình, 114 Bình thứ, tỉ lệ 100%.
Ban C: 52 dự thi, trúng tuyển 52, 7 bình thứ, tỉ lệ 100%.(8)
Những thành tích trên đây của hai trường trung học uy tín nhất của miền Nam nói lên vài điều.
Thứ nhất có một truyền thống của trường của các thế hệ trước.
Thứ hai, tỉ lệ đỗ cao trong việc tuyển chọn ngay từ năm đệ thất trung học đến năm đệ nhị cho thấy có một sự liên tục đến kinh ngạc. Theo giáo sư Nguyễn Thanh Liêm(9), hằng năm có 6000 học sinh thi tuyển vào đệ thất trường Petrus Ký và chỉ lấy chừng 300-400 em (năm 1964 có 400 học sinh trong 8 lớp đệ thất). Cũng theo gs Nguyễn Thanh Liêm, trong kỳ thi Trung học đệ nhất cấp cuối thập niên 1950, toàn quốc chỉ có một người đậu hạng Bình thôi, người đó là học sinh Petrus Ký. Thi bao nhiêu đậu bấy nhiêu, 100% là một tỉ lệ chỉ có trường Petrus Ký đạt được. (Rất tiếc, tôi không có được số liệu của các trường Chu Văn An, Trưng Vương).
Điều đó có thể nói thêm là nhà trường từ ông hiệu trưởng đến giáo sư đến các học sinh nằm trong một cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tổ chức kỷ luật nghiêm minh giúp học sinh phải cố gắng chăm chỉ học tập.
Nói chuyện người rồi nói chuyện bên lề của tôi. Tại Nha Trang những năm sau 1960. Tôi còn nhớ kỷ niệm lần đầu tiên đi dạy. Cổ không đeo thòng lọng. Tay không có cặp, chân không có giầy. Chữ nghĩa để trong đầu và cứ thế cầm phấn trước bục giảng.
Tôi vẫn là tôi. Cứ thế ung dung vào cổng trường bằng cửa chính. Bác cai trường chưa biết là ai trông thấy tôi. À cái thằng nào mà lộng quá, nó dám ngang nhiên vào cổng chính dành cho giáo sư. Bác quát, “Anh kia, đi lối này.” Bác quát lần thứ nhất, tôi không biết là quát tôi. Bác tiến gần tôi quát lần nữa. Tôi nghe tiếng quát, ớ ra, biết là bác quát tôi. Tôi nói ú ớ, “Tôi là giáo sư.” Bác để yên. Bước lên bục thềm trường, đụng thầy hiệu trưởng và thầy Cung Giũ Nguyên chứng kiến cảnh đó. Tôi đỏ mặt chào hai người.
Thầy giáo, nghề hay nghiệp?
Ông thầy trường công
Truyền thống triết học Hy-La để lại coi vai trò ông thầy chỉ là bà mụ đỡ đẻ, còn nhiệm vụ đẻ chính là học trò. Chân lý này theo tôi đời đời đúng mãi và là phương châm cho bất cứ nền giáo dục nào. Thầy trường công, ông là ai?
Tỉ lệ thi đỗ cao như trên, phải chăng do ông thầy dạy giỏi? Chỉ đúng một phần. Nói cho đúng, đó là mối tương quan hỗ tương: Trò giỏi thì thầy cũng giỏi. Nếu dùng một thuật ngữ trong triết Thiền luận thì giữa thầy và trò có một khả năng chung là khả năng thấu thị. thầy trò đồng cảm hiểu nhau, bắt được những tín hiệu truyền đi và như thế trò mãi mãi khắc ghi.
Không phải ông thầy nào cũng có được điều này. Nó thật dễ mà cũng thật hiếm hoi.
Trong nhà trường, có nhiều sinh hoạt bên lề như thể thao, báo chí, cắm trại, viếng thăm, đi Picnic, hội thảo, v.v., không phải ông thầy nào cũng sẵn sàng đảm nhận. Thường các thầy trẻ, ít bận gánh gia đình tình nguyện. Dù gì đi nữa cũng phải có lòng. Vì nó tốn hao nhiều công sức và thời giờ.
Và nếu hỏi, ông thầy nào xứng đáng là thầy thì câu hỏi đã có câu trả lời rồi đấy.
Chính các thầy cô gần gũi học trò, hiểu học trò và có thể ảnh hưởng trên tâm thức người trể tuổi, để lại dấu ấn trong tâm trí đến khó quên.
Tôi xin dẫn bằng vài chứng minh cụ thể.
Thầy Nguyễn Viết Long, trường Ngô Quyền Biên Hòa
Ông là một giáo sư trẻ tuổi, mới về trường. Gốc Bắc, cử nhân luật, hình như đang tập sự luật sư thì phải. Ông ăn nói hay, hùng biện, nhiệt tình, cởi mở chừng mực. Mới vào nghề mà tay nghề như thế kể là vững.
Học trò các lớp đệ tứ do ông phụ trách đón ông với niềm hân hoan. Nhất là lớp Tứ 3, do ông phụ trách hướng dẫn. Trò mới lớn, thầy chập chững bước vào nghề với một tấm lòng trong sáng mà theo thuật ngữ tôi nói ở trên, ông có khả năng thấu thị.
Cho nên, tôi chẳng lạ gì sau này có đến ba học trò, nay đã thành danh, viết về ông.
Ông xứng đáng được như vậy.
Chỉ đáng tiếc, nay trông ông đã khác nhiều so với thủa xưa.(10)
Bài đầu tiên nhan đề Thầy cũ, thầy mới, do Cô Võ Quách Tường Vi – Ngô Quyền khóa 10 – chấp bút.
Tôi đặc biệt lưu ý đến cử chỉ của thầy Nguyễn Viết Long đã đến thăm gia đình cô khi căn nhà cô ở đã bị cộng sản pháo kích đổ sụp. Cô nhắc nhở đến những kỷ niệm khó quên khi nhà bị VC pháo kích chỉ còn là đống gạch vụn. Thầy Long và mấy người bạn của thầy ở trường kỹ sư Phú Thọ đã đến thăm gia đình và ở lại dùng bữa trưa thanh đạm. Bếp là ba viên gạch chụm lại, mái che bằng một mái tôn che tạm trên 4 chiếc cọc. Cảnh ấy thật khó quên khi nghĩ đến cộng sản.
Vậy mà ở nơi đây có những tiếng cười và hẳn là chan chứa tình người, giữa ba của Tường Vi và mấy thầy giáo.
Và cô kết luận: “Thầy Long, thầy cũ, thầy mới này lúc nào cũng ở trong tâm hồn của tôi và những học trò của Thầy năm xưa.”
Còn phần thưởng nào lớn hơn cho ông thầy?
Bài thư hai của cô Võ Thị Ngọc Dung nhan đề, Trong và ngoài khung cửa lớp.
Đề tựa này rất là ý nghĩa bởi vì nó nói lên cái tương giao thầy-trò không chỉ quy định trong lớp học, mà còn ngoài lớp học. Và chính ở cái không gian ngoài lớp học trong những lần đi picnic, làm báo, hội thảo, sinh hoạt mới đan kết lên những điều đáng ghi nhớ nhất. Cô Dung viết:
“Trong năm học này, Thầy khuyến khích chúng tôi làm những bài thuyết trình và đồng hành với lớp chúng tôi trong các buổi picnic ở thảo cẩm viên, Cù Lao phố. Không biết tình cờ hay thế nào mà bất cứ cuộc vui nào của lớp chúng tôi luôn có cặp ba: Thầy Nguyễn Viết Long, thầy Nguyễn Văn Phú và thầy Trần Văn Phúc. Thầy còn soạn thảo kế hoạch chương trình cho lớp chúng tôi kết nghĩa với trường Quốc Gia Nghĩa Tử ở Thủ Đức với những buổi sinh hoạt du khảo thật thú vị.”
Cô Võ Thị Ngọc Dung viết tiếp như một lời kết luận đẹp:
“Dù qua bao biến động. Thầy vẫn là một trong những vị giáo sư mà chúng tôi rất ngưỡng mộ trong các năm học ở Ngô Quyền. Có lẽ sự nhiệt tình, năng động đầy sáng tạo của thầy đã lôi cuốn và làm nảy sinh trong lòng chúng tôi lúc ấy những ước mơ, hoài bão vào đời thật cao đẹp, đầy tự tin và cho đến nay nó đã trở thành động lực, kim chỉ nam đưa đến những thành tựu mà chúng tôi và các học trò ngày xưa của thầy đã đạt được.”
Võ Thị Ngọc Dung – NQ, K11.
Bài thứ ba Thầy với sinh hoạt Hiệu đoàn.
Cô Nguyễn Trần Diệu Hương là người trẻ nhất trong đám ba người viết. Và cô chú trọng đến những sinh hoạt hiệu đoàn mà thầy Long tham dự.
Tôi không thể ngờ là đã có những buổi thuyết trình về các tác phẩm văn học như “Bò sữa gặm cỏ cháy” của Duyên Anh, “Nói với tuổi hai mươi” của Nhất Hạnh, “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh. Và nhất là chọn ban khi vào đệ nhị cấp và chọn ngành khi vào đại học. Và cô kết luận:
“Những gì thầy hướng dẫn, dạy bảo tụi em vẫn còn đó… Dù muộn màng, em xin kính cám ơn thầy. Và mong thầy luôn an nhiên, vui khỏe. Học trò của thầy, các chs Ngô Quyền lưu lạc khắp nôi trên thế giới vẫn luôn luôn nhớ đến thầy.”
Nguyễn Trần Diệu Hương. NQ. K.15.
Tôi có cần viết thêm điều gì nữa không? Thưa chắc là không.
Nếu có thì tôi sẽ viết thế này: Ông đúng là có phong cách làm thầy giáo, đi đâu cũng có cái cặp. Ông làm những việc xem ra nhỏ, nhưng lại có tầm vóc lớn. Tầm vóc lớn bởi vì nó có tầm ảnh hưởng đến cả đời một người tuổi trẻ.
Thầy Phạm Xuân Ái, giáo sư Pháp Văn trường Petrus Ký.
Trước khi viết về thầy Phạm Xuân Ái, xin ghi chú vài nét về ngôi trường lớn nhất miền Nam này.
Trường Petrus Ký vốn có một truyền thống lâu đời mà mỗi học sinh mỗi ngày khi bước vào cổng trường đều nhìn thấy hai câu đối khắc hai bên cổng trường:
Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Tây Âu khoa học yếu minh tâm.(11)
Một trong những sinh hoạt ngoài học đường là các kỳ Đố vui để học được thực hiện khi Việt Nam được Mỹ cung cấp trang bị đài truyền hình trắng đen, số 9 dưới thời ông Nguyễn Cao Kỳ.
Chương trình mới mẻ này có sức thu hút rất lớn đối với học sinh và cả phụ huynh nữữa. Chương trinh do giáo sư Vũ Khắc Khoan điều khiển và giáo sư Đinh Ngọc Mô phụ trách.(12) Phải nói ông Đinh Ngọc Mô là cái đinh của chương trình này.
Ông là người có tài và từng thủ diễn vở kịch Thành Cát Tư Hãn của giáo sư Vũ Khắc Khoan. Sau đó, ông sang Pháp tu nghiệp thêm về Vô tuyến truyền hình và người thay thế ông trong chương trình Đố vui để học là giáo sư Cao Thanh Tùng.
Xin trích lại bài viết của tác giả Nguyễn Việt Dũng viết về người những thầy của mình, cả thầy Phạm Xuân Ái, và cuộc tranh tài giữa hai trường công uy tín nhất miền Nam.
“Tôi đã được đọc hồi ký của một số bạn thời còn mài đũng quần trên ghế nhà trường thế hệ 1964-71. Kỷ niệm đẹp nhất tôi còn giữ lại trong suốt 7 năm trung học dưới mái học đường Petrus Ký thân yêu có lẽ là chuyến ra quân chiến thắng vào tháng 2 năm 1971 với trường Chu văn An. Khi học được nửa năm, Thầy Phạm Xuân Ái (nay đang sống ở Aubervilliers bên Pháp) thông báo cho tôi biết được chọn cùng với 5 bạn khác đi thi đấu trong chương trình “Đố Vui Để Học” số 95 (thu hình ngày 14/2/1971, phát hình ngày 21/2/1971) của đài truyền hình trên băng tần số 9. Đối thủ của chúng tôi không ai khác hơn là đội Chu văn An. Thầy Ái còn nói thêm có trường gì ở trên Thủ đức đã thách trường Petrus Ký đấu với trường của họ, nhưng Thầy Ái nói rằng phía Petrus Ký từ chối, viện cớ là trường lớn và nổi tiếng của chúng ta không thi thố với trường quận vô danh tiểu tốt. Thật ra thì Thầy Ái nói riêng với chúng tôi:‘Tụi bây không bì kịp với bọn mọt sách ấy đâu. Tụi bây vừa học vừa chơi, còn người ta là dân chủng viện, học ở trường thầy dòng, suốt ngày cấm cung học hành đấy.’ Giờ thì có dịp tranh tài với trường Chu Văn An ngang tài ngang sức. Trường Chu Văn An chuyên môn dạy toán ở đệ nhị cấp (chỉ có ban B thôi). Petrus Ký thắng thế hơn ở chỗ đa dạng, ban A (Vạn vật) có, ban B (Toán học) cũng có, ban C (Văn chương) cũng có nốt.
Trong đội của trường Petrus Ký có 6 ứng viên, 3 thiệt thọ, 3 dự khuyết. Tôi và Lê Trí Đạt đại diện cho ban B. Còn Lương văn Hy đại diện cho ban C. Tôi nhớ trong hàng ghế dự bị có Lê Nhơn Lộc học lớp 12A1. Lê Trí Đạt đã từng thi Đố Vui Để Học trên danh nghĩa cá nhân trước đó và đã trúng giải cùng với hai bạn khác. (Sau này Lê Trí Đạt đi du học ở Đức, sau lại di dân sang Mỹ, bây giờ thì bặt tăm). Phía Chu văn An có Vương Đình Điềm từng đậu hạng tối ưu trong kỳ thi Tú tài 1. Dù sao trong buổi thi đấu trên “võ đài” kiến thức tổng quát, ít khi thấy Vương Đình Điềm múa môi khua miệng. Còn tôi thì có tật trả lời liên miên, trật cũng nói, trúng cũng nói. Bởi vậy, dù lúc đầu chúng tôi dẫn trước trường Chu văn An với tỷ số 40/20, nhưng vì chúng tôi trả lời sai hơi nhiều nên giữa chừng (phút thứ 15) chúng tôi bị qua mặt với tỷ số 53/77. Người điều khiển chương trình là Cao Thanh Tùng lại nói là “Petrus Ký rượt gần kịp Chu văn An”. Chỉ 5 phút sau, chúng tôi qua mặt trường Chu văn An trở lại với tỷ số 78/77. Ở phút 25, tỷ số là 118/82. Cuối cùng chúng tôi cũng chiến thắng: 175 điểm, trường Chu văn An được 117 điểm. Thật hồi hộp khi bị vượt qua. Thầy Ái, “ông bầu” của chúng tôi, sốt ruột nên lập tức thay người, cho Lê Trí Đạt học lớp 12B6 ra nghỉ, và đưa Phan Hồng Châu học lớp 12B4 vào thay. Điều này hơi lạ vì Phan Hồng Châu không có tên trong danh sách dự bị. Vì thế khi thắng cuộc chúng tôi chia chiến lợi phẩm ra làm 7 phần bằng nhau, chứ không chỉ chia cho 6 người.
Chúng tôi vẫn còn biết ơn các thầy cô đã góp phần đào tạo chúng tôi kỹ lưỡng. Tôi còn nhớ trước khi ra quân, thầy Phạm Xuân Ái, thầy Phạm Ngọc Đảnh (từng sống ở Đức nay đã qua đời), thầy Dương Ngọc Sum (nay ở Mỹ) đã “quay” chúng tôi trong thư viện ở trường để thử sức. Chúng tôi phải biết rõ UNESCO, UPI, ILO, WHO, v.v… là chữ viết tắt của các tổ chức quốc tế nào. Ngoài ra, thầy Đảnh còn hỏi chúng tôi thêm về những chữ viết tắt tiếng Đức như SS, SA, Gestapo, v.v…
(T) Lương văn Hy lãnh phần thưởng hạng nhất toàn trường. (P) Nguyễn Việt Dũng lãnh phần thưởng hạng ba toàn trường. Saigon, 24/5/1971. Nguồn: NVD/HAH Petrus Trương Vĩnh Ký Úc châu
Riêng tôi thì thường xuyên la cà các thư viện có gắn máy lạnh để nghiên cứu cá nhân. Tôi thích tra cuốn “Kỷ lục thế giới” (World’s Guinness Book) để biết sông nào dài nhất, núi nào cao nhất, hố đại dương nào sâu nhất hoàn cầu, v.v… Tôi thích thám hiểm không gian nên cũng học luôn bản đồ mặt trăng, nhờ vậy đã trả lời được câu hỏi “ở đâu có miệng núi lửa Copernic?” “Trên mặt trăng”. Chính xác!
Chúng tôi trả lời được một câu hỏi về Vạn Vật nhờ thầy Nguyễn Ngọc Nam (từng sống ở Đà lạt nay đã qua đời): “Tế bào con người có bao nhiêu nhiễm sắc thể?” “46”. Câu hỏi khiến cả hai đội đều bí là một công thức hóa học nếu đọc ra thì là tri-ni-trô tô-lu-en tức chất nổ TNT. Thật ra, cho đến lúc đó chúng tôi chưa học xong chương trình lớp 12. Một câu hỏi khác cũng về hóa học mà cả hai đội không biết là tên thông dụng của glu-ta-mát monosodium. Là bột ngọt! Chúng tôi được ông Cao Thanh Tùng, người điều khiển chương trình, khen là có tinh thần đồng đội cao vì với câu hỏi “‘Tám tiết’ trong ‘bốn mùa, tám tiêt’ là gì?”, một bạn Petrus Ký đáp: “Lập đông”. Người khác tiếp: “Lập xuân”. Người này tiếp: “Lập hạ”. Một người khác nói nốt: “Lập thu”. Rồi: “Xuân phân”. Rồi: “Hạ chí”. Người khác tiếp: “Thu phân”. Cuối cùng: “Đông chí”. Như vậy ba người chúng tôi thay phiên nhau trả lời thay vì chỉ có một người giành nói hết.
Chúng tôi còn phải cám ơn thầy Lê Bá Kim dạy môn công dân giáo dục đã cho chúng tôi biết Proud’hon người Pháp đã nói câu: “Tư sản tức là ăn cắp”, nhờ đó chúng tôi đáp được câu hỏi này ghi thêm điểm số cho đội Petrus Ký.
Dù sao, chúng tôi chịu thua trước câu hỏi toán học về ma phương (hình vuông 16 ô, 12 số có sẵn, và 4 số kia phải tìm). Vì hồi hộp nên chúng tôi đã quên đó chỉ là vấn đề giải một hệ thống phương trình 4 ẩn số gồm 6 đẳng thức bậc nhất!
Dù sau, nhờ có các thầy dạy toán của các lớp 12B (Vũ Đình Lưu và Lê văn Đặng) mà chúng tôi trả lời được câu hỏi: “Ai đã phát biểu những câu này: (1) Qua hai điểm trong mặt phẳng không có đường thẳng nào đi qua, (2) Qua hai điểm trong mặt phẳng chỉ có một đường thẳng đi qua. và (3) Qua hai điểm trong mặt phẳng có hai đường thẳng đi qua”. Người thứ nhất là Riemann người Đức, người thứ hai: Euclid người Hy Lạp, và thứ ba: nhà toán học Nga Lobachevsky.
Thôi, không cần nói gì thêm nữa. Giờ đây đã có phần ghi âm. Muốn biết thêm, chỉ cần nghe lại toàn bộ chương trình 30 phút dưới dạng MP3. Vậy là 3 chàng ngự lâm pháo thủ PK71 đã tái xuất giang hồ sau 45 năm: Lương văn Hy đang sống ở Toronto, Canada; Phan Hồng Châu đang sống ở Texas, Hoa Kỳ và Nguyễn Việt Dũng đang sống ở Biên Hòa, Việt Nam.”(13)
Mẫu người thầy
Qua nhưng mẫu người thầy trên, tôi tạm chia ra có 3 mẫu người thầy.
Cô Trần Thị Tỵ, mẫu người thứ nhất. Bà là Hiệu trưởng trường nữ trung học Gia Long.
Có thể nói về bà vì đã gặp trong dịp tôi là giám khảo kỳ thi tú tài II, Ban C mà bà là chánh chủ khảo.
Nhớ lại, bà là một phụ nữ độc thân, nhưng lại không có cái bề ngoài xã giao như thường tình. Bà không có thói quen nói cười, giả lả xã giao với người này người kia. Bà cho mọi người thấy: bà chỉ có công việc và trách nhiệm.
Cái bề ngoài lịch sự, ăn nói chừng mực, vừa đủ. Nhưng thật sự bên trong cứng rắn trong công việc và không ai có thể trách cứ bà điều gì. Tinh thần trách nhiệm cao ấy hẳn làm nhiều người nể phục. Học trò hiểu biết thì phải kính mến bà, trân trọng bà.
Nhưng điều tôi vẫn chưa hiểu là một người phụ nữ như bà, làm thế nào bà đã có thể điều hành một trường học dưới mái trường XHCN?
Sau khi trích dẫn bài viết này, tôi nhận ra phong cách của thầy Nguyễn Viết Long và thầy Phạm Xuân Ái là hoàn toàn trái ngược nhau.
Thầy Nguyễn Viết Long, mẫu người thầy thứ hai
Thầy Long là mẫu người trẻ năng động, lý tưởng và đi sát với học sinh ở các lớp đệ tứ. Mẫu mực ấy rất thích hợp cho các học sinh mới lớn lên. Và ông Hiệu trưởng có mắt lắm nên đã trao trách nhiệm Hiệu đoàn phó cho ông.
Thầy Phạm Xuân Ái, mẫu người thầy thứ ba
Tôi không có cái may mắn được biết thầy Ái. Nhưng qua cách mô tả của học trò, tôi hình dung ra được một ông thầy vừa nghiêm nghị, vừa khôn ngoan tùng trải, vừa chững chạc và thân mật với học trò như cha-con.
Thầy Phạm Xuân Ái, già dặn hơn, hiểu đời và nhất là hiểu học trò hơn ai hết. Ngôn ngữ giao thiệp giữa thầy trò họ cũng thân mật và gần gũi hơn. Tôi thích thú lối xưng hô giữa thầy trò họ. Thầy Phạm Xuân Ái điều khiển không phải học trò đệ tứ mà lớp đệ nhất sắp lên đại học.
Qua một vài chút phác họa của học trò thầy, sự già dặn của thầy thật đáng nể. Tôi thích nhất đoạn văn viết thầy từ chối cho những con gà của mình đối đầu với một trường thầy dòng nhỏ.
Bề ngoài thầy tuyên bố không nhận lời thách thức của trường dòng tu. Nhưng với riêng học trò, ông lại nói thật là tụi bay đấu với họ là thua, vì họ chăm.
“Thầy Ái còn nói thêm có trường gì ở trên Thủ đức đã thách trường Petrus Ký đấu với trường của họ, nhưng Thầy Ái nói rằng phía Petrus Ký từ chối, viện cớ là trường lớn và nổi tiếng của chúng ta không thi thố với trường quận vô danh tiểu tốt. Thật ra thì Thầy Ái nói riêng với chúng tôi: ‘Tụi bây không bì kịp với bọn mọt sách ấy đâu. Tụi bây vừa học vừa chơi, còn người ta là dân chủng viện, học ở trường thầy dòng, suốt ngày cấm cung học hành đấy.’”(13)
Có thể ông chỉ cốt dằn cái hiếu thắng của đám học trò của ông chứ họ vị tất đã thua học trò trường thầy dòng.
Thầy Ái đúng là mẫu người lãnh đạo.
Nói chung thì cả ba mẫu người ấy phản ánh đúng cái tựa đề của cô Dung, Trong và ngoài khung cửa lớp.
Các thầy nay được học trò nhắc nhở đến nhiều nhất, chính là nhờ những sinh hoạt ngoài khung cửa lớp. Tôi cũng được nghe học trò vẫn nhắc lại thầy của họ sau cả nửa thế kỷ rời ghế nhà trường vì những bài học ngoài bài giảng hàng tuần như thầy Dương Hồng Phong, dậy Anh Văn, đối với học trò của ông ở Petrus Ký. Ông đã ảnh hưởng đến cả thế hệ học sinh không phải vì những bài học trong những cuốn “English For Today” mà bằng một câu tiếng Việt, “Các anh phải đi, và các anh phải về.” “Đi” ở đây là đi du học, và “Về” là về để xây dựng đất nước. Và thầy Phong luôn nhấn mạnh chữ “Về” như thể lo rằng học trò của thầy nghe chưa rõ.
Trước khi chắm dứt bài viết này, tôi cũng muốn nói thêm một chút về một ông thầy dạy ở Đại học mà sự quý mến của sinh viên cũng không khác gì lắm của giới học sinh trung học.
Tôi có nhận được một cuốn sách từ trong nước gửi ra và tác giả Ngô Văn Long, một bác sĩ, có nhã ý tặng tôi qua trung gian một người bạn của ông.
Ông viết về bạn bè trường Y Khoa của ông vào cuối năm 1975. Nhưng trong dòng chia xẻ giữa bạn bè, ông đã dành ít trang để nói về người thầy của ông và đám bạn bè: Thầy Hoàng Tiến Bảo đã mất ngày 20-1-2008.(14)
Nhan đề bài viết là Nhớ thầy.(15)
“Không thiếu gì những giáo sư y khoa nổi tiếng lỗi lạc cả một thời. Nhưng chính sự gần gũi với học trò đã tạo ra sợi dây liên lạc hữu cơ. Với thầy, chúng ta bao giờ cũng có những tình cảm thật gần gũi, như một người cha, dù đối với việc học hành bao giờ thầy cũng rất nghiêm ngặt, đúng quy tắc… thầy như một tấm gương. Từ cách làm việc, cách sống, tình yêu thương đối với học trò, sự tận tụy, óc hài ước, sự thông minh.”
Vài dòng đóng lại
Nhìn lại 20 năm giáo dục miền Nam, một thời gian quá ngắn, nhưng lại để lại một di sản quá lớn. Hàng triệu học sinh các cấp đã hưởng thụ được một nền giáo dục nhân bản để thành người hữu dụng.
Họ có thể sau này trở thành một người lính ngoài mặt trận, một chuyên viên, một người lãnh đạo thì cái cội nguồn giáo dục ấy vẫn giúp họ trong khi thi hành trách nhiệm của họ.
Nói chung và vắn tắt, đó là một môi trường giáo dục lành mạnh, ‘sạch’. Nếu cá sống cần biển sạch thì con người cũng cần một môi sinh, môi trường sạch.
Đây là vốn đầu tư lớn nhất mà chúng ta được thừa hưởng khi nhìn vào những thành quả lớn lao mà người Việt ở hải ngoại đã đạt được.
Người trồng lúa đợi một mùa thì có lúa ăn. Nhưng trồng người thì có khi phải chờ đợi nhiều năm!
Thầy Nguyễn Văn Lục (tác giả) và các nam sinh trường Trung Học Ngô Quyền. Nguồn: ngo-quyen.org
Đó là kết quả của nghề thầy.
Ngày hôm nay nhìn lại, uống nước nhớ nguồn, lòng ta ở đâu thì trường ta ở đó.
© 2016 DCVOnline
Nguồn: Bài do tác giả gởi. DCVOnline hiệu đính và minh hoạ.
(1) Chuyện ông Carnot nhan đề Học trò biết ơn thầy, trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư (Sách tập đọc và tập viết) Lớp Dự bị do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận biên soạn. Nha Học chính Đông Pháp xuất bản (1935).
(2) Nguyễn Tấn Bi, “Lớp tiếp liên (cours des certifiés) năm 1949”
(3) Dương Thiệu Tống, “Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại”, trang 289.
(4) Dương Thiệu Tống, Ibid., trang 281.
(5) Bài viết của Võ Thị Hai, Saigon 7-2000, nhan đề Cô Trần Thị Tỵ – Người đã dành cả đời mình cho giáo dục lớp trẻ, đăng trên báo Đi Tới, số 37-38, năm 2000, trang 157.
(6) Võ Thị Hai, Ibid., trang 157.
(7) Tôn nữ Hương Bình, “Từ Ranh ngôn đến ác mộng”, báo Đi Tới, số 83, 2005, trang 89.
(8) Thành tích Học tập niên khóa 1971-1972, Kỷ yếu Trung học Trương Vĩnh Ký, 1971-1972, trang 99.
(9) Nguyễn Thanh Liêm, Trường Petrus Trương Vĩnh Ký, Saigon, Đi Tới, số 37—38, năm 2000, trang 17.
(10) Xem trang điện tử ngo-quyen.org, phần Một góc thầy cô.
(11) 孔 孟 綱 常 須 刻 骨 / 西 歐 科 學 要 銘 心: hai câu đối của Giáo sư Ưng Thiều có nghĩa là: Ðạo lý cương thường của Khổng Mạnh: nên khắc vào xương / Kiến thức khoa học của Tây Âu: cần ghi vào lòng.
(12) Đinh Ngọc Mô tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Pháp văn Đà Lạt, niên khoa 1965. Sau đó, ông được đi tu nghiệp bên Pháp và chương trình do giáo sư Cao Thanh Tùng diều khiển.
(13) Nguyễn Việt Dũng, “Một Chuyến Ra Quân”, Hội Ái hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc châu, 2016.
(14) Thầy Bảo còn có hai người anh em là giáo sư đại học Hoang Quốc Trương, đại học khoa học và Hoàng Khải Tiệp. Cả hai đều đi tu và làm linh mục.
(15) Ngô Văn Long, “Góp nhặt dông dài”, trang 50.