Văn Quang- Tiểu Sử- Văn Quang kể cho HLC nghe về “Chân trời t ím”, các tạp ghi liên quan hay viết về Văn quang- March 15, 202 2

TIỂU SỬ NHÀ VĂN VĂN QUANG

Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1933 tại Thái Bình.

Năm 1953, động viên gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.

Từ năm 1957, chuyển sang ngành Tâm Lý Chiến với nhiệm vụ Trưởng Phòng Báo Chí Quân Đội thuộc Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH và là Trưởng Ban Biên Tập của các tờ báo Quân Đội VNCH thời đó.

Từ năm 1969 cho đến 30/4/1075, là Quản Đốc đài Phát Thanh Quân Đội, cấp bậc Trung Tá. Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là Tiếng Tơ Lòng được đăng trên nhật báo Than Dân, Hà Nội cuối năm 1953 và tác phẩm thứ nhì là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.

Từ đó cho đến 30/4/1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn như Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Tiếng Vang, Kịch Ảnh, Truyện Phim, Điện Ảnh, Văn Nghệ, Tiền Phong, Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Tuần San…

Trong khoảng thời gian này, Văn Quang hoàn thành hơn 50 tác phẩm in trên các báo và đã có 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm từng gây sôi nổi một thời trong giới độc giả trẻ như Nét Môi Cuồng Vọng, Nguyệt Áo Đỏ, Người yêu Của Lính… và đặc biệt đã có 4 tác phẩm được chuyển thành phim từ 1962 đến 1972 là Ngàn Năm Mây Bay, Chân Trời Tím, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Hát Học Trò.

1. Chân trời tím được Quốc Phong chủ hãng Liên Ảnh chọn quay. Hùng Cường và Kim Vui thủ diễn hai vai chính trong phim Chân trời tím với bài “Nửa hồn thương đau” của Phạm Đình Chương do Thái Thanh hát. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã lấy nguồn cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết này để sáng tác nhạc phẩm “Chân trời tím” cùng tên.

2. Ngàn năm mây bay thì do Thái Lai phim thực hiện với Hoàng Anh Tuấn làm đạo diễn và sĩ quan quân đội Phạm Huấn thủ diễn.

3. Phim thứ ba là Đời chưa trang điểm của hãng phim Giao Chỉ do ông Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn.

4. Cuối cùng là phim Tiếng hát học trò do Thái Thúc Nha của hãng Alpha thực hiện, Thanh Lan diễn vai chính.

Các tác phẩm của Văn Quang có thể phân thành 4 nhóm đề tài: mô tả cuộc sống tuổi trẻ, phản ảnh đời sống quân ngũ, phản ảnh thực đời sống thời chiến và những châm biếm những lề lói thời thượng lố lăng thuộc nhiều lãnh vực sinh hoạt, đặc biệt là các giới làm nghệ thuật.

Sau 30/4/1975, cũng như mọi sĩ quan quân lực VNCH khác, Văn Quang bị đưa qua nhiều trại tù từ miền Nam tới miền Bắc trong thời gian dài hơn 12 năm.

Tháng 9 năm 1987, được thả ra khỏi trại tù, Văn Quang trở về Sài Gòn và từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam.

Năm 1990, Văn Quang bắt đầu trở lại với việc sáng tác văn nghệ và Ngã Tư Hoàng Hôn là tác phẩm đầu tiên được hoàn thành sau nhiều năm bị “treo bút”. Tác phẩm này, đã được một số thân hữu của nhà Văn Quang tổ chức ra mắt tại Thung Lũng Hoa Vàng vào ngày 21/10/2001. (Trích phần giới thiệu về tác giả trong Ngã Tư Hoàng Hôn)

Từ năm 1992 Văn Quang là cộng tác viên thường xuyên của nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại như báo Chiêu Dương tại Autralia, báo Người Việt, Thời Luận của nhà văn Đỗ Tiến Đức tại Nam California và Tiếng Vang, tại Sacramento… Riêng tại San Jose, thì Văn Quang chưa cộng tác chính thức với một tờ báo Việt ngữ nào trong. Thỉnh thoảng, độc giả được đọc một vài bài viết của Văn Quang trên nhật báo Việt Mercury. Độc giả San Jose, cũng còn được đọc bài viết kêu cứu của Văn Quang về “con gái của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ”, hay đề cập tới hoàn cảnh khó khăn, nguy ngập của Chú Tư Cầu nhà văn Lê Xuyên.

Năm 2009 ông được tạp chí Khởi Hành ở California trao tặng “Giải Văn chương Toàn Sự nghiệp Khởi Hành 2009″.

TÁC PHẨM

Tiếng Tơ Lòng (1953)

Hoàng Hoa Thám: Bài Học Xương Máu Của 25 Năm Đấu Tranh (1957)

Thùy Dương Trang (Tiểu thuyết 1957)

Những Lá Thư Màu Xanh (Tiểu thuyết 1963)

Tiếng Hát Học Trò (Tiểu thuyết 1963)

Nghìn Năm Mây Bay Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1963)

Nguyệt Áo Đỏ (Tiểu thuyết 1963)

Đời Chưa Trang Điểm (Tiểu thuyết 1964)

Từ Biệt Bóng Đêm (Tiểu thuyết 1964)

Nét Môi Cuồng Vọng (Tiểu thuyết 1964)

Chân Trời Tím (Tiểu thuyết 1964)

Những Tâm Hồn Nổi Loạn (Tiểu thuyết 1964)

Những Người Con Gái Đáng Yêu (Tiểu thuyết 1964)

Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1964)

Vì Sao Cô Độc (Tiểu thuyết 1965)

Những Kẻ Ngoại Tình (Tiểu thuyết 1965)

Người Yêu Của Lính (Tiểu thuyết 1965)

Đường Vào Bến Mê (Tiểu thuyết 1966)

Những Bước Đi Hoang (Tiểu thuyết 1966)

Tiếng Cười Thiếu Phụ (Tiểu thuyết 1966)

Tiếng Gọi Của Đêm Tối (Tiểu thuyết 1966)

Người Lính Hào Hoa (Tiểu thuyết 1966)

Quê Hương Rã Rời (Tập Truyện 1969)

Những Ngày Hoa Mộng (Phóng sự tiểu thuyết 1970)

Sài Gòn Tốc (Phóng sự tiểu thuyết 1970)

Trong Cơn Mê Này (Tiểu thuyết 1970)

Soi Bóng Cuộc Tình (Tiểu thuyết 1992)

Một Người Đàn Bà Những Người Đàn Ông (Tiểu thuyết 1998)

Sài Gòn Cali 25 Năm Gặp Lại (Ký sự 2000)

Ngã Tư Hoàng Hôn (Phóng sự tiểu thuyết 2001)

Lên Đời Tập 1 (Phóng sự tiểu thuyết 2001)

Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự (Ký sự 2002)

Lên Đời Tập 2 (Phóng sự tiểu thuyết 2005)

NGHE VĂN QUANG KỂ VỚI HOÀNG LAN CHI VỀ HAI NHẠC PHẨM “ CHÂN TRỜI TÍM” CỦA TRÂN THIỆN THANH VÀ “NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU” CỦA PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

Link để nghe: http://thuvientoancau.org/HoangLanChi/NhacChuDe/NhacPhim.mp3

( đây là chương trình Câu Chuyện Âm Nhạc của HLC năm xưa. Chủ đề Nhạc Phim. Hoàng Lan Chi phỏng vấn Văn Quang và Nguyễn Thụy Long. HLC từ Mỹ gọi về VN cho 2 nhà văn này)

TÀI TỬ CHÍNH “CHÂN TRỜI TÍM’, KIM VUI HÁT “CHÂN TRỜI TÍM” CỦA TRẦN THIỆN THANH:

https://youtu.be/yEWqCj6CvTw

MỘT SỐ BÀI TẠP GHI TRONG WEB HOÀNG LAN CHI CÓ VIẾT VỀ VĂN QUANG

§ Văn Quang-Có âm mưu đảo chánh năm 1975 không

§ Cỏ Hoang-Thư cho người bạn già-truyện ngắn hay- Hoàng Lan Chi xin chờ….

§

§ Từ “Cụ già” Văn Quang đến “Cụ già made in France from Vietnam, Trần Thanh Hiệp”

§

§ Kim Vui-Người phụ nữ Việt Nam hấp dẫn nhất thập niên 60-70

§ Dương Như Nguyện- Khuôn Mặt Kim Vui Trên Màn Ảnh Lớn VNCH

§

§ Từ Phượng Tím Cali đến “Chân Trời Tím” của Văn Quang.

§ Văn Quang-Vài kỷ niệm với đạo diễn phim Chân Trời Tím vừa từ trần

( CÒN BÀI “ Lan Chi âm vang mùa đông” do Văn Quang viết cho HLC mà tìm chưa ra)

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Văn Quang- Tiểu Sử- Văn Quang kể cho HLC nghe về “Chân trời t ím”, các tạp ghi liên quan hay viết về Văn quang- March 15, 202 2

Phạm Văn Duyệt- Mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ miền Nam- April 4, 2022

Mười cái chết oan khiên của Văn Nghệ sĩ miền Nam

(Sau ngày 30/4/1975, CSVN xâm lăng nước VNCH)

Phạm Văn Duyệt

Sau khi cưỡng chiếm Saigon, tập đoàn cọng sản đã thực hiện chính sách đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn. Một trong những thành phần bị đọa đày thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống chi là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước. Bài này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước thân yêu.

1. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 1976)

Đỗ Tú Tài 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch Thơ. Di cư vào Saigon 1954 hành nghề dạy học. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.

Trong tập truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại: Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như người đồng thiếp. Như không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.

Một cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài: Tại Sao Vũ Hoàng Chương bị bắt vào tù Khám Lớn?

– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: sau 75 nhiều thơ nhạc chế diễu chế độ mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc biệt là hai câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:

Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý

Đồng Khởi ra đời mất Tự Do

– Chê thơ Tố Hữu: theo bài đăng trên “net” của Sông Lô viết về Vũ Hoàng Chương nhận xét thơ Tố Hữu:

Sau 75, một phái đoàn từ bắc vô Saigon có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “họp mặt văn nghệ”. Đề tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình, thương một, thương ông thương mười

Cán bộ như Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Nghị, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của nhà thơ để dạy con trẻ yêu cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?Tôi biết chắc là không. Bởi từ đoạn trên của mấy câu lục bát này trong bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của hai câu ta đang mổ xẻ.Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẻ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.

Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là người của tự do không phải quỵ lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà Thơ đã thế hiện khí khái tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.

– Nhà Văn Mai Thảo có bài “Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”: Sau 75, Họ Vũ dời nhà về sống với vợ con Đinh Hùng (em Bà Chương) ở Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng. Vì Hà Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.

Từ cọng sản chiếm miền Nam, hơn ba triệu người đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.Theo Mai Thảo, đám nhà thơ miền Bắc đặc biệt đố kỵ Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam rồi đưa tới hệ lụy cho việc bắt giữ.

– Mai Thảo viết theo lời kế của Bà Chương: 9:30 sáng 13.4.76 Vũ bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe jeep đầy nhóc áo vàng mang súng ống như cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi Sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.

Vũ bị đánh thức trong giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật thẳng giữa chiếu, bất động như một pho tượng.

Bọn quỹ dữ ở lại lục soát trên hai tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi, Ông không trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó, hai thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa vào khám Chí Hòa giam cầm cùng với một số trí thức khác kể cả Bác Sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến họ Vũ mà Cựu Thủ Tướng đã tận tình chăm sóc và không hề ngại ngần bưng bô cho thi sĩ.

Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm thiếu thốn mọi bề, sức lực Ông kiệt dần. Việt Cọng biết không thể sống được bao lâu nên thả Ông về để tránh tiếng bức tử trong tù. Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng vấn vương tiếc nuối điều gì.

Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:

Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người

Sên bò nát óc máu thầm rơi

Chiều nay một dấu than buông dứt

Đinh đóng vào săng, tiếng trả lời!

2. NGUYỄN MẠNH CÔN (1920 – 1979)

Viết báo Đông Pháp từ 1939. Đến 1951 dạy học tư. 1956 – 61 chủ bút báo Chỉ Đạo. Xuất bản 13 tác phẩm. Có biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.

Theo Nhà Thơ Viên Linh, sách Nguyễn Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người trong các xã hội cọng sản.Nhà Văn Mai Thảo cho rằng “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ yếu của văn học Quốc Gia Việt Nam từ 54 đến 75 và là niềm vinh dự chung của văn học miền Nam”. Một số tướng lãnh rất khâm phục luận thuyết và viễn kiến của Ông.Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45 người nổi tiếng bị việt cọng bắt đi tù.Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý giá của Nhà Văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn Can Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý bạn văn, bạn tù của Nguyễn Mạnh Côn.

– Tù Nhân Đặng Hoàng Hà: bị giam cùng buồng với Nguyễn Mạnh Côn: sáng 2.4.79, trước cả ngàn tù nhân và cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi “học tập” 3 năm. Hôm nay đủ hạn đó. Tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là tù nhân. Tôi sẽ không ăn cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau đó việt cọng căm thù nhốt riêng không cho ăn uống đến nỗi thời gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức và chết tháng 6.79.

– Ghi nhận của Nhà Báo Ngô Nhân Dụng: Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất bén nhọn, Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức của nhân loại.

– Nhà Văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận. Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì viết như một nhà thông thái hoặc như nhà phân tâm học.

– Nhà Thơ Viên Linh: 1940 Nguyễn Mạnh Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử có thể kể là giai đoạn hoạt động thực sự ngoài đời của Anh. 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc và 1975 được mời vào Ban Giám Khảo giải này.

– Nhà Văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn không lập danh bằng đường võ, có lẻ một phần do thể xác yếu ớt mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức trung úy đồng hóa nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết đầy sáng tạo, đi vào cả “vùng cấm địa” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, thế giới siêu nhân của khoa học giả tưởng và cả địa hạt tư duy chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì?

Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái một thời trong thế giới chữ nghĩa.

– Họa Sĩ Tạ Tỵ: một buổi tối, Nguyễn Mạnh Côn, mang cấp bậc Thiếu Úy, tới tìm tôi tại văn phòng đường Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Anh cho biết được đồng hóa cấp thiếu úy để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương. Anh nhờ tôi trình bày trang bìa cho báo đó. Là báo Bộ Quốc Phòng nên tôi vui lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với cấp chỉ huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua bài của các nhà văn.

Nhờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm say mê người đọc.

– Nhà Văn Tuấn Huy: Năm 1960, Nguyễn Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh khi đăng những bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi…nói về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới cầm bút Saigon. Điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác, một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị).

Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh Côn là Nhà Văn Lặng Lẽ: Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ từ tốn nhàn nhã như người đi dạo giữa dòng đời. Ông đã nêu lên những vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa, Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi một món ăn bình dân và ly rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc. Tôi không hề thấy ở Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” hay một “nhà lập thuyết”. Ông vẫn là Nhà Văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Thưởng thức lặng lẽ và hướng thụ cũng lặng lẽ…

Lúc nào Ông cũng trầm ngâm. Ít Khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười. Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn. Tôi rất quý Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch sử trong lằn ranh Quốc/Cọng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng 6.98).

– Tù Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn” (Khởi Hành số 20 đã dẫn): Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9.79, có nghe anh em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.

Vào buổi sáng chủ nhật không đi lao động, một cậu nhỏ tù hinh sự tìm tới tôi rồi từ từ mở gói giấy báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng nói giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn Ông bằng xe “cải tiến”, em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em giữ làm kỷ niệm, nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3 loong gạo”.

Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là cặp kính của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả giá:

Một loong rưỡi thôi!

Cậu nhỏ gật đầu, chịu liền…”

3. CHU TỬ (1917 – 1975)

Một học trò cũ của Chu Tử là Hồ Xưa ghi lại bài viết “Nhớ Thầy Chu Văn Bình, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Lê Văn Trung” (nguồn webhoidonghuongtayninh), trong đó có sơ lược tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy.Mới 13 tuổi gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đầu năm 1930 theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.Cuối thập niên 30 trở thành một trong vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.Thời thanh niên mở trường tư, học trò rất đông, nhưng tấm lòng Ông không an phận ở đó. 1954 vào Nam, làm Hiệu Trưởng Trung Học Tây Ninh. Sau về Saigon lập báo Sống. Vì bất đồng chính kiến, tòa soạn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực đoan tấn công năm 1966 (vanviet.info). Cũng năm này, Ông bị việt cọng bắn vỡ quai hàm ngay trước nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi hàng được chừng 3 chữ.Sau biến cố này, có bạn đọc gởi Chu Tử câu đối:

Thượng Tọa bể bàn tọa

Chu Bình sứt miệng bình

– Nhà Báo Trùng Dương nhận xét: Nhật báo Sóng Thần ra đời năm 1971 với chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho cuộc chiến đấu chống cọng bảo vệ vùng đất tự do. Là tờ báo duy nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới vận mệnh đất nước đóng góp.

Giữa thập niên 1960, tình hình miền Nam khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chánh, tranh chấp ảnh hưởng của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và các đảng phái chính trị, việt cọng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh phá và ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử đã “lùa” các nhân vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai cấp mà Ông cho là bất xứng vào mục “Ao Thả Vịt” của Kha Trấn Ác (bút danh Chu Tử) được rất nhiều người đọc dù họ không biết có bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao vì đã làm một việc quá can đảm giữa môi trường hết sức nhố nhăng đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cọng nằm vùng đang chực chờ phá hoại.

Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người thù ghét. Có thế nói Chu Tử nằm vào số ít thuộc giới văn chương báo chí trong ngoài nước được nhiều người biết đến.Dẫu sao, Chu Tử là nhà văn nhà báo thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn bán rất chạy trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi như chủ báo hòa đồng thân thiện, hào sảng với anh em.

– Nhà Văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong 20 năm làm báo, ông chưa hề gặp chủ báo nào hào hiệp rộng rãi như Chu Tử đã từng hỏi ông: Anh muốn lấy bao nhiêu tiền nhuận bút và lệnh cho thủ quỹ chi trả ngay không chút chần chừ.

– Nhà Văn Võ Phiến, tác giả Tổng Quan Văn Học bình luận chi ly: “Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm báo cũng khiến lắm người khoái quá trời. Người ta khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như trong văn chương.

Tiểu thuyết ông có những nhân vật ngang tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách.Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc trực nên nhiều chuyện và nhân vật Chu Tử thả vào “Ao Thả Vịt” nghe như thật một trăm phần trăm ấy. Độc giả khoái tỉ, đem ra bàn tán. Sinh ra thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận tiền, tả xung hữu đột, đánh đông dẹp tây, ủng hộ cánh này, húc đổ phe kia, gây nên sóng gió.Theo Võ Phiến, Chu Tử bắt tay viết cuối thời Đệ Nhứt Cọng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo, ngổ ngáo. Trong lớp trẻ sau này có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông. Truyện ông thành công. Báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng rộng rãi. Sau ông, lắm kẻ cũng trổ tài hô hào, đập phá. Nhưng chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên trang giấy bằng ngòi bút mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như Ông viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng đạn.

Về cái chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:

1. Viên Linh: Định mệnh nào tai ác đã thù hằn đeo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như Chu Tử vào trưa ngày 30.4.75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành tàu để nhìn Saigon lần cuối. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên rồi gọi tên đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại…

Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với Viên Linh: thi hài Chu Tử được bó vải thả xuống Thái Bình Dương vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.

– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, 41 quái quỷ gì đó…rơi lõm bõm trên sông. Một viên bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà Văn Chu Tử…

– Du Tử Lê: Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết “Yêu” là nhà văn Chu Tử, nhưng số lượng người biết nhà báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do, ở lãnh vực báo chí, ông đã không ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có thế lực về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội…

Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh…Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận…

4. HỒ HỮU TƯỜNG (1910 – 1980)

1926 du học Pháp, trình luận án Cao Học Toán. Kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà.Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng cọng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa Stalin, cổ xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Rồi 1939 tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác.

Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời phỏng vấn của Đài RFA thì trong những văn kiện lịch sử của đảng cọng sản Việt Nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít trong khoảng trước và sau 45, xem như bọn phản cách mạng chống lại Đệ Tam Quốc Tế của họ. Đây là phong trào cọng sản do Leon Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cọng sản Đệ Tam do Lênin lãnh đạo.Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế giới, trong khi Đệ Tam chủ trương thực hiện từng bước và Liên Xô là quốc gia đầu tiên, rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới. Theo Bà Tuyến, chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn.

Về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền, những đảng hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Theo Trotsky thì tập trung dân chủ chứ không phải một đảng nắm hết. Về sau, Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt. Trotsky phải lưu vong ngay sau khi thành lập và cuối cùng bị ám sát chết.

Bà Tuyến nói: “nhóm Đệ Tứ bị những người Đệ Tam, tức Việt Minh, lùng giết sau cách mạng tháng tám là chuyện có thật. Stalin đã truy lùng Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng đường lối đó. Bà Tuyến nói đảng cọng sản chưa bao giờ nhìn nhận họ đã ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Theo Bà, khoảng 400 người Đệ Tứ bị mất tích hoặc giết hại trong giai đoạn 45 khi họ tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1953 Hồ Hữu Tường đề nghị cọng sản để Việt Nam trung lập, nhưng không được chấp nhận. 1957 bị đày ra Côn Đảo vì Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống Tổng Thống Diệm.

1967 đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị Cọng Hòa và tiếp tục viết báo.

1978 bị bắt do kiến nghị cọng sản trung lập hóa Việt Nam. Tháng 6.80 bệnh nặng khó cứu chữa, được cho về nhà và mất ngay hôm đó.

Đã viết 1000 bài báo và hơn 30 sách truyện giá trị.

Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Hồ Hữu Tường tự nói về mình: “nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, và nào là nhà báo”.

– Nhà Văn Thụy Khuê tóm tắt vài điểm chính về Hồ Hữu Tường:

*Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính quyền thực dân, quốc gia, cọng sản. Suốt đời chống chiến tranh.

*Con đường Ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của Ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.

*Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc.

*Có dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ.

– Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân nhận xét trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”: cuộc đời Hồ Hữu Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một tri tuệ năng động, một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy”.

Hồ Hữu Tường kể chuyện viết tiểu thuyết với Khái Hưng (Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”): Khái Hưng rủ tôi cọng tác viết tiểu thuyết, cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã phác họa vài nhân vật và cốt truyện, đặt tên Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ Khái Hưng, tôi thử viết tả những người này, trình bày được hai hình tượng Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử ấy cho thấy là tôi không có tài viết tiểu thuyết, nên không nối tiếp nữa.

– Nhà Văn Trần Bảo Định: Hồ Tiên Sinh vẫn là người hiền của đất Nam Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay…vần xoay liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”. Dẫu vậy Ông đã có cả cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không còn gì hối tiếc, bởi Ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với những sự thế gặp phải trên đường đời.

Trong Phi Lạc Sang Tàu, Hồ Hữu Tường viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức, không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý về vật chất lẫn tinh thần mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp quả địa cầu, không đâu thoát được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.

5. PHẠM VĂN SƠN (1915 – 1978)

Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công phu nhất là Bộ Việt Sử Tân Biên.Đại Tá Sơn ra đi để lại nhiều tiếc thương cho đồng đội. Đây là lời kể của một số nhân chứng về sự cố “nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông:

– Nguyễn Văn Dưỡng: “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn” (https://vietmessenger.com) Từng là thuộc cấp của Ông Sơn. Tôi biết Ông rất thận trọng, không hề khinh xuất trong nhiệm vụ.

Ông thường nói: “phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.

Với quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố – giữa các đơn vị quân ta và địch – khi mà những cơn pháo dữ dội của đối phương chưa giảm – khi không một trực thăng nào đáp xuống lại không sợ tan xác, thế mà Ông đã đích thân bay vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó, cùng tôi ở trong hầm chống pháo một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo cọng quân rơi trên đầu mình, vừa hỏi tôi những sự kiện chi tiết ghi trong nhật ký hành quân.Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ ở trại Tân Lập, Vĩnh Phú, lúc chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên trong cửa sổ phòng “cách ly”.Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng đã trở vàng cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt bởi chứng nan y.Mũi, má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết. Ông bị tàn phế cấp độ nặng.Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại. Do kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi chết. Cả người nhầy nhụa máu me.

– Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang (Hồi Ký về Đại Tá Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://huongduongtxd.com).Trong thời gian bị giam giữ, Đại Tá Sơn đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển: xin các Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây lịch sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo lời của tên Nhàn, trưởng ban thi đua trại).

Đại Tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho tù nhân chính trị được hưởng quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng cũng giúp cho anh em còn sống được dễ thở hơn.

– Huỳnh Hữu Ủy (Vài Điều Tản Mạn Nhân Đọc Bài Viết “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn”, https://dongsongcu.wordpress.com)

Cùng bay vào An Lộc với Đại Tá Sơn giữa lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy, Anh Ủy nhận xét: Ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong đại học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc cấp này, Đại Tá Sơn chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng có chút nào chất quân phiệt, không áp dụng kỷ luật nhà binh mà ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng nghiệp cũng là những người cầm bút.

– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật lịch sử không tưởng của các sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.

– Bác Sĩ Phạm Hữu Phước: Trích từ “Dòng Sông Cũ: Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại Tá Phạm Văn Sơn”.

Ở tù cùng trại. Từng khám bệnh Đại Tá Sơn. “Từ thời còn trung học Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, tôi đã được đọc “Việt Nam Tranh Đấu Sử” của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn cùng. Tôi kính trọng, thông cảm, ngã nón bái phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.

“Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.

“Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Thường mời Đại Tá quây quần để nghe Ông kể chuyện xưa lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức về sử.

“Đại Tá Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Trước cường quyền và độc tài, Ông không khiếp sợ van xin, luôn ngẩng cao đầu mà nói với cọng sản ‘các ông làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau’.

Với Ông, “Anh hùng tử, khí hùng bất tử”.

6. HỒ ĐIỆP (1930 – 1988)

Di cư vào Nam 1954. Tên thật Nguyễn Thị Tý. Sau khi phát hiện tài năng thiên phú của Bà, Đinh Hùng đặt nghệ danh là Hồ Điệp.Báo Nghệ Sĩ (https://thoixua.vn) đã giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – tài năng nhưng cuộc đời lại quá đổi đau thương”: Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà nhẹ nhàng, mỏng manh mang lại đầy màu sắc như những cánh bướm.Bà thường ngâm thơ trên chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do), được đánh giá là giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng. Ngót 60 năm rồi nhiều người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai của người con gái Sơn Tây qua bài “Gởi Người Dưới Mộ” của Đinh Hùng:

Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?

Nằm trong đất lạnh chắc em sầu

Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy

Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mộng về đâu?

Em mất về đâu?

Hằng đêm ta nguyện, ta cầu

Ấy màu hương khói là màu mắt xưa

Em đã về chưa?

Em sắp về chưa?

Trăng sao tắt ngọn đèn mờ

Ta nằm rỏ lệ, đọc thơ gọi hồn

Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc vào cõi âm.Hồ Điệp có khuôn mặt phúc hậu, hiền dịu. Nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến. Nhà Thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà là Nữ Hoàng Thanh Sắc:

Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời

Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ

Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được mời diễn ngâm ở Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả xa quê lâu ngày, tâm hồn nhớ nhà nhớ nước, lắm người không ngăn được dòng nước mắt nức nở nghẹn ngào khi nghe Bà đưa hồn mình vào cõi thơ sầu mộng.Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài “Một Thoáng Hương Xưa”: Vào năm 1960 tại cuộc họp một số văn nghệ sĩ có Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà Văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ và Bát Cơm Bát Máu), Vũ Quân tặng Hồ Điệp, Mặc Thu hai câu thơ:

Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp

Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu

Nhà Thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca Sĩ Thái Hằng (chị em bạn bằng dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Saigon, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ với nét đẹp cổ kính của thục nữ Bắc Hà.

– Phạm Công Luận: “Saigon – Chuyện Đời của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn”. Theo báo Trẻ số 7 Tập 1 năm 1960, Hồ Điệp có giọng mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các đoạn thơ trong truyện Kiều, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ T.T.KH rất được thính giả hâm mộ.

– Chu Văn Lễ nêu nhận định: giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.

Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hoặc nhà bạn hữu.Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh Bướm Bên Trời”: “Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện đưa đón, theo dấu người tị nạn tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại.Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ gởi qua nhờ theo dõi tin tức một người thân đã rời Saigon khoảng đầu 1988. Thư cũng cho biết nhóm này gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, nhưng có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre rừng…Tôi đi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước. Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh. Bên nam còn có Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm bài Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp đã có lần ngâm trên Đài Saigon.Bài Thơ hay quá đổi, quá liêu trai, phù hợp với ánh trăng xanh nhạt rải trên mái tranh, trên từng đám lá mồng tơi.Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt…

Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm, thế nhưng thời gian trôi đi, Cánh Bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thể ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được.Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung thủy của thính giả mà bay về đây báo mộng.Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi…thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã về thật rồi”…

Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đặt thờ trong Chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Saigon.

Theo NguoiVietBoston, các con của Hồ Điệp định cư ở Mỹ. Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007 tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt giam 6 tháng.

7. MINH KỲ (1930 – 1975)

Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Dòng dõi Hoàng tộc, vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại. Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm rất được ưa chuộng.

Là một trong ba thành viên nhóm Lê Minh Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.

Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. Ba người ở ba miền mà tương đắc, gắn bó, tri âm tri kỷ gần mười năm. Lê Dinh cho là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.

Chỉ nghe qua câu chuyện 3 Nữ Sinh Viên Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi tao phùng gặp gỡ Lê Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của nhóm này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:

Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng

Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau

Em đã đến và đã đến như áng mây

Như cánh chim bay qua bầu trời

Ôi hình hài một vài giờ vui…

Tôi đứng đó như hình một pho tượng

Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây

Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi

Nghe trái tim rung lên bồi hồi

Chắc gì gặp lại lần thứ hai…

Theo Lê Dinh, Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời, chạm đến nỗi lòng người nghe.

Ca Sĩ Hoàng Oanh ca ngợi nhạc Minh Kỳ tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.

– Ca Sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ: Tôi từng gặp anh để trao đổi về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc. Tôi xem anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc anh trầm ngâm động viên “chú rán hát cho hay, cho tốt”. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao nói rằng nét tài hoa của Minh Kỳ không chỉ ở những tác phẩm Ông viết cho mình mà là sự đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên 1960, chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm, thanh niên giả từ học đường thi hành quân dịch. Thính giả bấy giờ muốn nghe và hát những bài ca có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ hát, tiết điệu nhịp nhàng…dễ đếm: đấy là thời kỳ những bài nhịp Bolero ra đời. Minh Kỳ đáp ứng với Biệt Kinh Kỳ:

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi

Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi…

Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi

Bạn ơi! hãy nói khoác chiến y rồi…

Có lẻ chưa bao giờ một bài hát lại ăn khách tới mức đó. Hằng tuần trên làn sóng điện khi trực tiếp truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng chủ nhật tại rạp Quốc Thanh, thì có ít nhất 3 thí sinh chọn bài này để thi. Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe Biệt Kinh Kỳ nhiều quá đến phát thuộc lòng!

Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển dù viết ở thể loại nào. Câu cú rất hệ thống và tài tình nhất là lời ca đượm tính cách “kể chuyện” thật hấp dẫn.

– Nhà Văn Phạm Tín An Ninh có bài “Cái Chết Oan Khuất của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”:

“Tôi và Minh Kỳ cùng trại tù An Dưỡng. Tôi ở nhà 1, Anh nhà 3.Một đêm cuối tháng 8.75, khoảng 9:30 tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn người tù nằm thao thức chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng một tiếng nổ long trời, kèm theo tiếng la thất thanh, còi báo động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại chỗ, kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.Khi chúng tôi chưa hết hoang mang, thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, 2 tay để trên đầu.Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “ có bọn phản động trong các anh đã dấu diếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả “kách mạng”.Một số bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương. Minh Kỳ thương tích rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ cho đến lúc tắt thở.Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết Minh Kỳ cùng những bạn tù khác là do chính bọn việt cọng quăng từ khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét”.Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài cốt Giáo Xứ Tân Định.

8. HỒ ĐÌNH PHƯƠNG (1927 – 1979)

Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm của hơn 20 nhạc sĩ danh tiếng được Ông viết lời hay phổ từ thơ Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đỗ đầu khóa Đốc Sự Hành Chánh.Sau 75 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Dalat” hay “Nhớ Nha Trang” đều do Ông đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này biết dường nào.

– Theo Du Tử Lê thống kê thì trong khoảng 200 ca khúc Nhạc Sĩ Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta đếm trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ Ông.

Một bài hát rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích là Con Đường Xưa Em Đi.

– Theo Phù Sa (Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc Sĩ Châu Kỳ và Châu Thị Đàng, hoainiem.org): Bà Đàng kể thời điểm 1967 – 68 Bà làm kế toán, còn Hồ Đình Phương là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai, Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà thường đi lại để về nhà. Chứng kiến cảnh ngộ đó, Hồ Đình Phương đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc vào năm 69 với ca từ thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Thật không uổng phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:

Con đường xưa em đi

Vàng lên mái tóc thề

Ngõ hồn dâng tái tê

Anh làm thơ vu quy

Khách qua đường lắng nghe

Chuyện tình ta đã ghi

Những mùa trăng vu quy

Vì mưa gió không về

Chiến trường anh bước đi

Có nàng hoen đôi mi

Ngóng theo đường vắng hoe

Hỏi còn ai cố tri

Em ơi, nhìn gió lên khơi

Lòng có trông vời

Một người xa cuối trời

Nơi đây phiên gác canh dài

E ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài

Em ơi, màu áo phong sương

Mình ước huy hoàng

Được bàn tay chính nàng

Dâng hoa, dâng hết ân tình

Tình đến bao giờ

Hỏi đường xưa mà nhớ

Con đường xưa em đi

Thời gian có quên gì

Đá mòn kia vẫn ghi

Ghi một đêm trăng thanh

Quán bên đường vắng tanh

Chỉ còn em với anh

Lời nhạc êm tai tha thiết như vậy mà từng bị cấm. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?

– Nhạc Sĩ/Nhà Phê Bình Âm Nhạc Nguyễn Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3.2017 cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do bài hát không đúng với bản gốc. Nhạc Sĩ nói rằng “đã cấp phép rồi lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”.

“Trước tiên phải nhìn nhận những ca khúc sáng tác trước 75 tại miền Nam là phần tạo nên diện mạo của nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20.

Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình, những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.Đây chính là yếu tố khiến nhiều ca khúc thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.Theo nhạc sĩ Long, việc Cục cấm hát 5 ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự việc càng trở nên rối khi những lý do viện dẫn để cấm chưa thực sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều tuần.Trong khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý với báo chí “chiến trường” ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?Bà Đàng từng chia sẻ: việc sử dụng từ “chiến trường” hay “phiên gác” chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này nói thay tâm tư tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa.Cần nhìn nhận việc cấm 5 ca khúc này chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không, bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ thời gian sống trong lòng công chúng”.Cho đến ngày 15.4.17 thì quyết định cấm đã được thu hồi.

9. THỤC VŨ (1932 – 1976)

Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung Tá ngành Tâm Lý Chiến. 1969 tiếp nối Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân phụ trách Thi Văn Tao Đàn, đổi thành Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc.Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca Quang Trung Hành Khúc được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao trường tập luyện.1975 bị giam trại Tân Hiệp, Biên Hòa. Tại đây Ông sáng tác nhạc phẩm “Suối Máu” với mấy dòng thơ cảm đề:

Em ở Saigon anh ở đây

Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy

Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược

Để nhớ nhung về che khuất mây

1976 chuyển ra Sơn La rồi mất tại vùng rừng thiêng nước độc này. Một số bạn hữu kể lại những ngày tù của Ông:

– Nhà Văn Văn Quang (Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành nằm chờ chết.Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.Tôi lặng người bởi hôm qua lẻn sang thăm Thục Vũ, Anh đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ: “tôi mệt không hút được nữa”. Sau đó Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.

Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn La, từ bệnh xá quanh con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, “đám tang” di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng. Hai cai tù vác AK đi đầu, kế đến một anh tù cầm vài nén nhang, 4 người khiêng cổ quan tài mộc. Sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ chuyển động như những bóng ma.Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác sĩ tù nhân trẻ nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa trông như tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi.Một tháng trước khi mất Thục Vũ có bài “Gởi Saigon”:

Viết bài thơ sau cuối

Ý nhạc tàn theo mây

Hồn anh về bên Chúa

Xác anh gửi phương này

– Nhà Thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng 15.11.76 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngã nón cúi đầu chào người bạn vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban xã Mường Thái với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả về Saigon có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt Chồng vào Nam.

– Nhà Thơ Huy Trâm viết: “Dù bị tù tội, Thục Vũ vẫn say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc: một hôm mưa tầm tả, cả đội lo đi hứng nước thì phải chạy trú tạm dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả áo quần, Anh vẫn mặc. Ta cứ hát. Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem! Thục Vũ vẫn nghêu ngao hát xong bài rồi mới vào hàng trú mưa. Hát cho quên sầu…và cũng là lần hát cuối đời. Một tuần sau anh mất”.

Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên nợ đưa đẩy Ông yêu thương Nhà Thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa con đầu lòng.

Vào những năm 1964 – 66, thi đàn miền Nam bỗng dưng xuất hiện nhà thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” do nhà sách Khai Trí xuất bản lúc mới chừng 20 tuổi.Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu Tuyến”:

Hôm nay trời vào thu

Dalat lắm sương mù

Cây khô buồn trút lá

Gió ven hồ bay xa

Mây thu lờ lững trôi

Lồng lộng gió lưng đồi

Xin anh đừng giận dỗi

Viết thư về thăm em

Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ da diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” như là tiêu biểu cho vần thơ của thi nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng:

Chiều chủ nhật đợi chờ anh mãi mãi

Sao trể giờ cho chua xót anh ơi!

Hẹn hò chi, chừ lỡ dở cả rồi

Tình mới chớm đã vội vàng lịm tắt

Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc

Liệu người ta đáp trả lại hay không

Đến bao giờ dẫm được xác pháo hồng

Áo cưới đỏ cười vui cô dâu mới

Anh hẹn đúng hai giờ anh sẽ tới

Nhưng sao chừ trời đã tối…anh đâu?

Mưa hôm nay êm như tiếng mưa ngâu

Anh lỡ hẹn nên chiều buồn rứa đó

Tôi gục mặt khóc thầm bên cửa sổ

Mà cô đơn trời hỡi vẫn cô đơn

Nơi xa xôi anh có biết tôi buồn

Anh có biết tôi cười mắt ngấn lệ

Anh lỗi hẹn hay là anh đến trể

Cho chiều nay đường phố lạnh mưa thu

Và đêm nay thành thị ướt sương mù

Người con gái gục đầu thương mệnh bạc.

10. DƯƠNG HÙNG CƯỜNG (1934 – 1987)

Trung Úy Quân chủng Không Quân. Nhà Văn với 3 tác phẩm: Lính Thành Phố, Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng.

Làm báo lấy bút hiệu Dê Húc Càng. Nổi lên ở Con Ong từ những số báo đầu với mục Cà Kê Dê Ngỗng, chuyên châm biếm tệ trạng xã hội, tố cáo bê bối của những nhân vật tai to mặt lớn.

– Nhà Văn Nguyễn Thụy Long trước khi trở thành văn sĩ đã viết: Tôi yêu thích phóng sự “Buồn Vui Phi Trường” của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị.

Tác giả Loan Mắt Nhung từng bị Trung Sĩ Dương Hùng Cường cảnh cáo: “Mày chẳng là gì cả trong quân đội, một hạt cát, thân phận tối đen, tao đã trải qua rồi, tao nỗi khùng, tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu”.

Nguyễn Thụy Long cho thấy phẩm cách đáng kính trọng, đáng ngợi ca của Dương Hùng Cường. Ông cho rằng cũng vì tính cương cường chống lại mọi hà hiếp áp bức mà Cường dù tốt nghiệp chuyên môn ở trường huấn luyện không quân Marrakeck (Pháp) với lon trung sĩ, nhưng suốt Đệ Nhứt và nửa thời gian Đệ Nhị Cọng Hòa Ông vẫn mang Trung Sĩ, trong khi các bạn đồng khóa hầu hết đều lên sĩ quan.

– Tác giả Hồ Đắc Túc có bài Mộ Dương Hùng Cường – Nơi Mộ Phóng Viên Báo Chí ở Normandie Pháp”: đây là Khu Vườn Tưởng Niệm gồm 27 bia đá khắc tên gần 2500 phóng viên khắp thế giới từ 1944 đến 2019 đã hy sinh vì sứ mạng đưa tin của họ. Vườn do Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters San Frontieres) thành lập. Dương Hùng Cường có tên trên mộ bia, cái chết của Ông được viết: Died in prison, supposedly of a brain haemorrhage. Arrested by the government in 1975, free sometime between 1978 & 1981 then arrested again in 1984 with many other journalists’.

– Nhà Văn Trần Ngọc Tự cảm tác bài thơ “Rượu Ngày Giỗ Bạn” nhân giỗ đầu Cường:

Chén âm dương vỡ giữa đời

Thoảng quanh men rượu ngỡ người bên mâm

Cuồng say thôi cũng âm thầm

Nhắp môi uống nốt mê lầm phù sinh

– Nhà Văn Hồ Nam qua bài: 100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ, Dương Hùng Cường Người Viết Văn Hài Sinh Nghề Tử Nghiệp’ (http://tanmanvanchuongthephong. blogspot.hung-cuong-nguoi) nêu rõ cuộc đời Cường từ sau 75:

Đi tù đợt đầu về, Cường làm nhiệm vụ “bế con”, “bửa củi”, nấu cơm cho vợ bán cháo phổi (dạy học).Giữa thời kỳ ăn “bo bo”, chạy từng bữa, Cường được Trung Úy Không Quân Trần Ngọc Tự báo tin: “sếp” Trần Tam Tiệp ở hải ngoại, nhân danh “Văn Bút Việt Nam” phát động chiến dịch “nhà văn từ ngục tù cọng sản viết, gởi bài ra nước ngoài”, nhuận bút trả bằng những “thùng đồ bộn bạc”.Cường nói với Tự: Cường không cần nhuận bút trả bằng thùng đồ, nhưng Cường viết để cho hải ngoại biết cọng sản… cỡ nào.

Không những viết bài gởi ra hải ngoại, mà Cường còn rủ các nhà văn khác: Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Lý Thụy Ý cùng viết. Hình thành một mặt trận “tự do văn hóa” khiến cọng sản…hoảng hốt cho công an đàn áp.Khi bị bắt, Cường hiên ngang nhận: ‘không những viết văn để vạch trần tội ác của chế độ cọng sản việt nam, mà còn cổ động anh em cùng viết văn, thơ tố cáo tội ác…’Thời gian bị bắt, Cường vào khu biệt giam dài dài, nhưng không ngán, suốt ngày ca vọng cổ tuồng Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà.Với giọng ca mùi “rệu”, khiến nhiều nữ tù “vượt biên” say mê, gởi quà thăm nuôi cho Cường lia chia, càng có quà của các “fan”, Anh càng phấn khích ca hát. Có đêm tới giờ giới nghiêm vẫn chưa chịu ngủ, cán bộ đe dọa cùm, Anh mới chịu ngưng ca.Đêm cuối đời Cường là đêm mưa to gió lớn, có lúc khu trại giam bị mất điện, nhưng tiếng ca Cường vẫn cứ mùi mẫn cất lên – như anh sinh ra để ca vọng cổ vậy.Sau đêm hôm đó, tới 8 giờ sáng, quản giáo mở cửa phòng để điểm danh. Một cán bộ gọi số tù của Cường – mãi không có tiếng trả lời – bèn quát lớn, “ngủ đến 8 giờ không chịu dậy, sẽ bị cùm đấy”.Lời dọa nạt không có lời đáp, cán bộ đập cửa phòng ầm ầm, rồi tức tốc mở cửa, lấy chân đá vào người Cường, “dậy mau, giỡn mặt với quản giáo hơi nhiều rồi đó!”Bị lãnh 2, 3 “cú” đá khá mạnh, Cường vẫn nằm im không cục cựa.“Thằng này ‘lì’ phải cùm thôi”.“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn trúng gió rồi, mau đưa đi cấp cứu, sao cứ đá hoài vậy. Tù cũng là người, chứ đâu phải…”.Nghe lời cải tạo viên, quản giáo vội vàng kêu ‘tù’ nhà bếp tới, dựng Cường dậy, đem đi cấp cứu.

“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn ‘ná thở’ rồi, còn cấp cứu gì nữa”.

“Hôm qua còn ca vọng cổ om sòm, sao ‘ná thở’ được.

“Người Ông tím bầm, chắc bị rắn cắn quá”.

Nhà Văn Nhà Báo tài hoa kết thúc thê thảm như vậy đó.Vì trời mưa gió thổi mạnh, rắn lục từ trên cây đối diện phòng biệt giam rớt xuống, bò vào cắn chết Ông.

– Cô Giáo Ấu Oanh viết bài “Khóc Bạn”

(Nam Kỳ Lục Tỉnh – Hồi Ký, Google sites).

Ấu Oanh, hiền thê Ca Sĩ Khuất Duy Trác kể chuyện bạn học Vũ Hoàng Oanh (Vợ Dương Hùng Cường): Ra trường Đại Học Sư Phạm 1964, rồi kết hôn với Cường năm sau. Họ sinh hạ 6 công chúa trong vòng 10 năm.1974 Hoàng Oanh tất bật dạy thêm kiếm tiền giúp chồng in tác phẩm thứ ba: Vĩnh Biệt Phượng. Sách vừa xuất xưởng chưa kịp phân phối ra ngoài thì mất nước, cả hai Ông vào tù. Để lại gánh nặng gia đình cho hai Cô Giáo phải đầu tắt mặt tối bon chen với chợ đời, làm sao nuôi nổi đàn con thơ dại…Thế rồi một hôm đầu năm 1979, Hoàng Oanh ngập ngừng tỉ tê: “Ta nói cái này, đừng giựt mình nhé…Ta có bầu”. Tôi nghe mà hoảng hồn. Hoàng Oanh khai: Hôm Tết rồi đi thăm Ông Cường trại cho ở lại một đêm…Rồi Hoàng Oanh năn nỉ dẫn đi phá thai vừa tròn hai tháng vì sợ không ai tin nổi. Ai đời Cô Giáo chồng đi ở tù mà lại mang bầu. Ai tin. Bà con, bạn bè, nhà trường…họ sẽ bêu riếu bôi tro trát trấu lên đầu “vợ thằng ngụy”.Tôi đem chuyện kể lại Mẹ. Bà Cụ bình tĩnh tính toán rồi khẳng định Hoàng Oanh sẽ sinh con trai. Nhờ vậy mà bạn bỏ ý định phá thai. Sau đó quả thật sinh trai đặt tên Phụng Hoàng (thờ phụng màu vàng).Rồi Cường ra tù. Anh liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang ở Pháp. Anh Tiệp gởi những thùng quà về giúp văn nghệ sĩ còn kẹt lại. Việc này dẫn tới hậu quả là đợt bắt giam “những tên Biệt Kích Cầm Bút” vào tù. Năm 1987 Dương Hùng Cường mất tại Phan Đăng Lưu. Hoàng Oanh đau đớn vật vã than khóc như cảnh ngộ thiếu phụ năm xưa “Đi Nhận Xác Chồng” của Lê Thị Ý:

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng

Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu

Hai năm sau, Hoàng Oanh bị tai nạn xe không qua khỏi, bỏ lại đàn con thơ 6 đứa bơ vơ.

Phạm Văn Duyệt

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Phạm Văn Duyệt- Mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ miền Nam- April 4, 2022

Dương Nguyệt Ánh vẫn “hừng hực lửa” và Phan Nh ật Nam vẫn là bạn hiền-nhu mì của HLC- March 26, 2022

Trích LanChiYesterday-Những vụn vặt đời sống quanh tôi

Dương Nguyệt Ánh vẫn "hừng hực lửa"

và Phan Nhật Nam vẫn là bạn hiền-nhu mì của HLC

KHÔNG THỂ ĐOÁN ĐƯỢC SẼ RA SAO

Chiến tranh Nga-Ukraine làm nhiều người bối rối, không biết ra sao và cuối cùng thế nào. VD xe tăng Nga ở đó mà không tiến thêm và Ukraine cũng không bắn. Nhưng cuộc chiến này đẻ ra nhiều anh hùng/anh thư bàn phím ghê. Họ chửi Putin ngu, bà Hằng đần…Giời ơi trùm cs gộc, trùm KGB, độc ác, thủ đoạn mà mắng nó ngu thì buồn cười quá. Bà Hằng là đại gia như thế mà mắng người ta đần thì cũng buồn cười quá. Nhiều người đoán có thể Putin sẽ cho phóng "hạt nhân" căn cứ vào quá khứ, tính nết. Cá nhân tôi thì nghĩ rằng: con gái đi đêm, ăn mặc hở hang thì xác xuất gặp "ma" và bị "ma" giết là cao. Vậy các quốc gia nhược tiểu nên 1,2,3,4 thay vì 5,6,7,8 nếu không muốn bị cá lớn nuốt.

Trên cõi đời này, Thượng đế sinh ra: mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, quốc gia lớn ức hiếp quốc gia nhỏ…Chả có công bằng ngay từ khi tạo thiên lập địa, ngay từ khi mới được đẻ ra. Người xấu/kẻ đẹp, người khôn/kẻ ngu, người học giỏi/người không thích học, người ác kẻ hiền như ma sơ…Ngồi đó mà mắng A ngu B đần thì lẽ ra nên có kiến thức kha khá ĐỂ CHỌN LÁ PHIẾU CHO ĐÚNG. Vd Mỹ, EU có lá phiếu đúng thì tập hợp một khối, san sẻ trách nhiệm, tát đầm lầy tham nhũng ở quốc gia mình đang là nguyên thủ thì đối đầu với Nga, TC sẽ đỡ vất vả hơn. Mà thôi, viết nữa thì "Bà Tổng" HLC cũng sẽ là "anh hùng bàn phím". ( cười).

NHỮNG NGƯỜI BẠN ‘TỬ TẾ"

Một số người không thì giờ hay có tuổi-ở trong nước ( tức là không giỏi Anh Ngữ, computer, cắt dán..) luôn cảm ơn "bà chằng" HLC vì những Bản Tin Ngắn. Đúng vậy. Tin nhiều quá. Tôi chỉ lấy ý chính. Không cần chi tiết. Thế là người bình thường cũng "nhớ được" một mớ tin để không bị lạc hậu, cũng có cái để nói chuyện với bạn bè mà chỉ tốn 2 phút để đọc!

CÓ VỀ MỸ, NAM SẼ ĐI ĐÓN

Một trong những người bạn lâu năm, "tử tế" của tôi là Phan Nhật Nam. Nam mới mail, kể rằng Dạ Lan 1 tên là Huỳnh Xuân Lan ( không phải họ Hoàng) vì là người miền Trung. Nam bị xếp ngồi giữa hai người con gái vì nhỏ tuổi và nghịch ngợm: Xuân Lan- Duyên. Khi đi tù về, Nam có ghé thăm Văn Quang-Dạ Lan 1. Nam còn Pi ét một câu cuối: "Có về Mỹ, nói tôi đi đón, Uber Free". Thiệt tình Uber bây giờ không đắt nhưng dại gì không kêu Nam đi đón nhỉ? (cười). Nam vẫn là một người bạn hiền lành-nhu mì-dễ thương của "Bà Tổng" HLC.

Nhớ khi xưa mới "move" về CA, tôi cần qua Pasadena thăm ô Hoàng, người hàng xóm cũ, tôi "bắt" Nam chở đi dù khi ấy Nam đang rất bận vì phải take care phần tin tức của Việt Dzũng ( vừa mất).

Cũng khi xưa tại CA, Nam đến nơi tôi ở và tôi đem laptop ra gõ khi phỏng vấn Nam. Vì thân nên tôi vẫn mặc short ở nhà (đang mùa hè). Chỉ vậy thôi mà ông bạn Nam trêu "Để tui chụp hình phổ biến cho mọi người thấy bà Hoàng Lan Chi mặc quần đùi phỏng vấn Phan Nhật Nam"! Hứ. Cứ làm như "bà chằng" HLC sợ vậy.

Link phỏng vấn Nam ngày trước:

Với “Một Người Lính Viết Văn” Phan Nhật Nam

VẪN LỬA HỪNG HỰC

KHG Dương Nguyệt Ánh là một người vẫn "nguyên vẹn lửa dân tộc" dù đã hơn 40 năm trôi qua. Ngày đến Mỹ, DNA chỉ mới 16 nhưng thuở sinh viên đã tham gia các sinh hoạt quốc gia này nọ. Được gọi là "người đàn bà bom" nhưng DNA đẹp dịu dàng, đằm thắm, nết na. Ngôn ngữ, y phục rất nề nếp, "con nhà". Những bài nói chuyện của DNA gây chấn động là khi cô sang Úc. Rồi sau này nhiều nơi mời và nơi nào vẫn thế: vẫn một DNA sắt son với lập trường quốc gia, với lằn ranh quốc cộng rạch ròi.

Mới nhất, DNA dự ngày giỗ của Cựu Tướng Lê Minh Đảo ở Nam CA. Tôi chả biết gi sất vì không thấy ai loan tin ở diễn đàn. Có lẽ mọi người bị "bội thực" với tin Ukraine. Tôi chỉ biết khi được mail của em. DNA báo tin em mới đến Westminster và tiếc là tôi không ở đó để chị em lại gặp gỡ. Tôi gú gồ và thấy được một youtube phỏng vấn DNA trong ngày ấy. Một DNA vẫn "hừng hực lửa". Nhưng có lẽ tuổi tác đã khiến DNA "rực lửa" hơn nếu so với thời DNA nói chuyện ở Úc.

Tôi chụp lại từ youtube một số hình DNA nhưng tôi thích hình này nhất vì Ánh diễn tả về máy bay ở một nơi tôi quên tên mà Ánh rất "tâm đắc" câu viết (slogan) của họ (Your attitude and not your aptitude determines your altitude"

Cầu mong chiến tranh Ukraine sớm chấm dứt. Thế giới đang khốn khổ vì vật giá leo thang chóng mặt. May mà "Bà Tổng" HLC chỉ có thú làm vườn, ngắm hoa.

Hoàng Lan Chi

3/2022

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Dương Nguyệt Ánh vẫn “hừng hực lửa” và Phan Nh ật Nam vẫn là bạn hiền-nhu mì của HLC- March 26, 2022

Gia Long Brisbane thăm Cô Phương và Thầy- April 12, 2022

Hoàng Lan Chi

GIA LONG BRISBANE THĂM CÔ PHƯƠNG DẠY THỂ THAO

Xin được chia sẻ với các Gia Long khắp nơi

Với sự giáo dục cũ về tình Thầy Trò, chúng tôi , nữ sinh Gia Long Brisbane đã đến thăm GS Môn Thể Thao, cô Phương, ở Gold Coast vào Tháng 4/2022.

Vì đa số ở Inala nên một chị Gia Long đã lái xe 14 chỗ đưa chúng tôi đi. Có lẽ khoảng hơn một giờ

Thầy cô đã gần 90. Thầy coi vẫn khỏe, da dẻ hồng hào. Cô thì ngồi xe mấy năm rồi. Cô có thể chống gậy đi chút ít. Tuy thế, da dẻ cô coi vẫn tốt. Tinh thần vẫn minh mẫn. Niềm vui của mọi người già là được con cháu, học trò cũ thăm viếng.

Nhà Thầy cô rất đẹp. Vườn tược khang trang, đẹp, gọn , sạch. Ngay vườn trước là có Tượng Phật Bà Quan Âm. Tôi luôn đến lạy Phật mỗi khi thấy nhà nào có. Đường đi vào khu vườn sau nhà, hai bên đủ thứ hoa, cây trái mà nhiều nhất là cóc. Cóc thấp lè tè nhưng lủng lẳng chùm này chùm kia. Một giàn nhỏ mướp và khổ qua nho nhỏ coi rất xinh. Phía sau nhìn ra sông đẹp quá. Giòng sông phẳng lặng, sóng chỉ lăn tăn. Đôi chim thiên nga màu đen bơi thong thả, thanh bình.

Chúng tôi tụ tập ở bàn dài. Một chị đã đặt mỗi người một bánh giò, một bánh bao. Còn ai thích trổ tài thì mọi người hoan hô. Mỹ Duyên làm spagetti chay ngon quá chừng. Minh Huệ có món flan vừa miệng. Còn tôi thì mới "tối kiến" xôi macadamia thay vì (đậu phọng) nên có xôi, chả giò rế và bánh phồng tỏi. Tôi cũng đem bịch phồng tỏi (loại nhỏ) khá to để các bạn ai thích lấy một ít về chiên thử.

Phương Mai, con gái cô, cũng là Gia Long chuẩn bị nước uống, mít nhà ( rất ngon, ngọt) ( múi được tách và bỏ ngăn đá). Mai trổ tài tỉa trái táo thành cặp thiên nga rất đẹp.

Văn nghệ thì lúc nào cũng có chút đỉnh. Bích và ông xã song ca Cô Nữ sinh Gia Long. Nhật Minh hỏi " bài nào mà tất cả chúng ta đều còn thuộc lời há?’ Mấy cái miệng đồng thanh "Quốc Ca". Thật vậy, Quốc ca thì chúng tôi còn nhớ lời chứ Cô Gái Việt thì cả đám cũng phải mở cell phone đã coi lời!

Dễ thương nhất là chúng tôi "trẻ nhất" có lẽ cũng ngoài 60, già nhất cũng ngoài 70 mà khi hát, Nhật Minh đứng dậy khoanh tay " Thưa Thầy cô, tụi con xin hát bài Cô Gái Việt xin tặng thầy cô".

Kỳ trước thăm cô Phương, tôi hay trò chuyện với Thầy rồi Cô vì tính tôi thích phỏng vấn và đó là lần đâu tiên tôi gặp. Cô dạy tôi môn thể thao năm đệ ngũ hay đệ tứ gì đó. Kỳ này không thể trò chuyện vì không ngồi cạnh cô hay Thầy được.

Khi về, tôi nói to " Nào các bạn ơi, chúng ta khoanh tay chào Thầy cô ra về nào". Một số bạn đã chào, đã đi ra cổng, số còn lại đồng thanh chào "Thưa Thầy Cô, tụi con xin phép về" với tay khoanh y như thuở nhỏ nhỏ ngày nào. Tiếc là lúc đó không có ai bấm máy kịp.

Tôi chia sẻ bài này chỉ để cho thế hệ trẻ ngày nay thấy trước kia, chúng tôi được giáo dục ra sao và chúng tôi vẫn gìn giữ "NẾP NHÀ GIA LONG" ra sao dù đứa nào đứa nấy đã lục tuần, thất tuần và cô thì ngoài bát tuần.

Hoàng Lan Chi

GL 60-67

Link tại Facebook: https://www.facebook.com/lanchi7/posts/10229018152339894

Các bạn thông cảm, HLC chỉ xin được hình từ Quí nên vô tình Quí “bị” thành “người mẫu”!

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Gia Long Brisbane thăm Cô Phương và Thầy- April 12, 2022

HLC- khi khác ý nên phản bác, không mạ lị; Hãy giữ gìn không gieo hạt bậy; Chính trị làm lu mờ sinh hoạt văn hóa, big media sẽ thống trị thế giới. April 1, 2022

Trích LanChiYesterday-Những vụn vặt đời sống quanh tôi

TẠI SAO PHẢI MẠ LỊ KHI NGƯỜI TA KHÔNG CÙNG Ý KIẾN

Một vài người đàn ông có tính rất kỳ cuc. Họ không nhận thức được đó là "hạ cấp". VD nếu bất đồng ý kiến với tổ chức, cá nhân nào thì cứ viết bài, nêu từng điểm và phản bác từng điểm. Tại sao phải chửi tên A rồi chửi lây sang những người khác trong cùng tổ chức do A làm chủ tịch? Tôi rất khó chịu khi đọc thấy những bài viết "chửi bới dơ bẩn, hạ cấp" khi gọi bà A là "mụ tú bà", bà B bán "vốn tự có"…Tôi nghĩ những người tử tế khi đọc bài viết đó sẽ khó chịu và tất nhiên kết quả ngược. Đó là người đọc, có thể đang không biết gì sự việc nhưng qua bài chửi bới mạ lị của Xoài, họ sẽ hồ nghi những điều Xoài viết. Nếu là tôi tôi sẽ viết đàng hoàng về những sai phạm hoặc lỗi nếu có của tổ chức A hoặc cá nhân B và để mọi người tự quyết định, tự nhận xét.

Tôi chợt nhớ tới một netter. Ông ấy ghi như sau ở comment trong một youtube của Cầu Muối Ngụy Vũ là ( tên này rất có hiếu với mẹ nó vì đi đâu nó cũng mang theo mẹ nó cả). Tôi có thể suy ra là những người ưa mạ lị người khác là "đĩ" thì có phải chính cá nhân người đó là "đ.." hoặc thân nhân họ là "đ.." không nhỉ? ( tôi đang nêu câu hỏi!)

VỤ CHRIS ROCK

Cả thế giới sôi nổi bàn tàn vụ Rock bị Will tát vì đem bịnh tật của vợ Will ra chế diễu. Người binh vực Rock thì lý luận ( trước kia có lần Will cũng đem chuyện những người trọc đầu phải làm cho thật bóng trước khi xuất hiện; không được bạo động). Người thì cho là Ban Tổ Chức viết "kịch bản" trước như thế.

Cá nhân tôi thì:

1) Hành vi của Rock là "vô giáo dục". Lý do: KHÔNG AI ĐEM BỊNH TẬT NGƯỜI KHÁC RA CHẾ DIỄU KHI BỊNH ĐÓ LÀ NỖI KHỔ LỚN CỦA ĐƯƠNG SỰ

2) Nếu tôi là Will, tôi sẽ lên sân khấu, giản dị " Vợ tôi bị bịnh rụng tóc và Bác Sĩ không tìm ra nguyên nhân. Cô ấy đau khổ nhiều năm. Nay cô ấy chia sẻ ở net là phải chung sống hòa bình. Đem nỗi đau khổ của một tài tử ra chế giễu là độc ác. Rock đã nợ chong tôi một lời xin lỗi".

3) Nếu không phải là "kịch bản" thì có thể Will bất ngờ và đã tát Rock.

4) Nếu là "kịch bản" thì có lẽ Ban Tổ Chức Oscar là những kẻ thiếu giáo dục khi chấp nhận. ( Holyywood: đa số là người ủng hộ Dân Chủ thổ tả!)

5) Không thể so sánh vụ Will trước kia để bào chữa cho Rock. Lý do: sự chế diễu của Will nhẹ hơn nhiều ( trọc đầu thì phải làm cho thật bóng trước khi ra ngoài), khác xa vụ đem bịnh tật ( mà lại là nỗi đau khổ rất lớn vì là tài tử. Họ cần bề ngoài)

MỸ CHẤP NHẬN NGƯỜI "KHÔNG GIỚI TÍNH" TRONG PASSPORT

Càng ngày càng "loạn". Tôi nghĩ thế. Lý do: Mỹ chấp nhận trong passport, người chủ có quyền khai "X" tức là họ không phải MALE và cũng không phải FEMALE !

CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI LÀM CHÌM NHỮNG SINH HOẠT KHÁC

Tôi nhớ năm xưa khi ca sĩ Hà Thanh mất thì rất rất nhiều người viết bài về chị. Ca sĩ Quỳnh Dao, lúc đó còn sống, cũng có một chương trình về Hà. Vài năm sau, phải nói giới văn nghệ "khá bùng nổ" khi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông ra đi. Rất rất nhiều người viết bài về Nguyễn Văn Đông. Có cả người lính viết văn Phan Nhật Nam. Những netters viết cũng nhiều. Chương trình tưởng nhớ Nguyễn Văn Đông do Thúy Nga tổ chức thì sé sold out rất sớm.

Thế mà nay vì tình hình chính trị thế giới sôi động nên không có nhiều người viết về sự ra đi của Văn Quang. Ngay cá nhân tôi ( rất quý mến Văn Quang) cũng không thể viết được nhiều. Tôi chỉ có một bài ngắn và đính kèm những links ngày xưa viết tạp ghi về VQ.

ĐỪNG PHÁ HỦY MÔI TRƯỜNG MỸ HAY ÚC

Người VN nhớ những rau trái VN thì đúng nhưng để gieo trồng ở hải ngoại thì tôi nghĩ nên tuân thủ theo luật lệ sở tại. Các quốc gia tư bản có những luật lệ nghiêm ngặt về hạt giống vì có thể gây bịnh và lan tràn khắp nước họ. Tôi còn nhớ cách đây vài năm, CA đã phải ra lịnh hủy toàn bộ cây chnah vì nó đã gây ra loại bịnh gì đó. Nghe nói là do một người VN đem hạt giống lén từ VN qua. Mong là các bạn hãy khuyên người nhà đừng bao giờ làm hại môi trường Mỹ hoặc Úc hoặc Pháp…

HAWAII, 2022, BAN NHẠC ROYAL HAWAIIAN BAND HÒA TẤU " VN QUÊ HƯƠNG NGẠO NGHỄ"

TỪ FACEBOOK NINA NHUNG NGUYỄN

Ban nhạc Royal Hawaiian Band hòa tấu bài "Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ", do Nguyễn Đức Quang sáng tác, trong Ngày Diễn Hành Chiến Binh Việt Nam Toàn Quốc, National Vietnam Veterans Day Parade tại Hawaii. 29 Tây Tháng Ba, Năm 2022.

https://youtu.be/DG5btX50NwQ

\

BIG MEDIA ĐÃ GIÚP UKRAINE RA SAO

2016, sau bầu cử Tổng Thống, tôi có viết bài ám chỉ big media sẽ ‘thống trị thế giới". Nay 2022, qua những trợ giúp của big media cho Ukraine thì điều trên càng rõ nét

Trích:

1) Ngày 28/2, Chủ tịch Microsoft, ông Brad Smith ra thông báo cho biết, vào ngày 24/2, chỉ vài giờ trước khi Nga xâm lược Ukraine, Microsoft đã phát hiện một cuộc tấn công mạng nhằm vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số của Ukraine. Các mục tiêu bao gồm các cơ sở và nhà sản xuất quân sự của Ukraine, cũng như lĩnh vực tài chính, lĩnh vực nông nghiệp, các dịch vụ ứng phó khẩn cấp, công tác hỗ trợ nhân đạo, các tổ chức và doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng. Microsoft ngay lập tức thông báo cho Chính phủ Ukraine về tình hình.

2) Ngày 28/2, Google cho biết họ đã tạm thời chặn người dùng nước ngoài sử dụng tính năng theo dõi giao thông thời gian thực của Google Maps ở Ukraine.

3) Project Shield cho phép Google hấp thụ lưu lượng truy cập xấu từ các cuộc tấn công DDoS (từ chối dịch vụ phân tán) và hoạt động như một “lá chắn” cho các trang web, cho phép chúng tiếp tục hoạt động và bảo vệ trước các cuộc tấn công.

4) Trong 12 tháng qua, Nhóm phân tích mối đe dọa của Google (TAG) phát hiện Ukraine đã phải hứng chịu hàng trăm cuộc tấn công mạng (hack) khác do chính phủ nước khác hậu thuẫn, chủ yếu là từ Nga. Kể từ khi chiến tranh Nga – Ukraine bùng nổ, Google đã mở rộng chương trình Project Shield để cung cấp khả năng bảo vệ cho các trang web của Chính phủ Ukraine, các đại sứ quán trên thế giới và các chính phủ lân cận khác.

5) Ngày 28/2, công ty SpaceX của ông Elon Musk đã vận chuyển lô thiết bị Starlink đầu tiên đến Ukraine, bao gồm: ăng-ten, giá đỡ chân máy và bộ định tuyến Wi-Fi. Theo thử nghiệm tốc độ được sử dụng bởi người dùng địa phương ở Ukraine, Starlink cung cấp tốc độ tải xuống liên tục 136Mbps, cao nhất có thể lên đến 200Mbps, gấp 5 lần tốc độ băng thông rộng Internet trung bình ở Ukraine.

6) Hệ thống vệ tinh Starlink của CEO Musk đang giúp lực lượng máy bay không người lái tinh nhuệ của Ukraine tiêu diệt vũ khí của Nga. Hệ thống đảm bảo rằng nhóm máy bay không người lái có thể hoạt động bình thường ngay cả trong trường hợp ngắt kết nối Internet.

(theo trithucvn)

Như vậy tương laicác tin tức, bản đồ để giúp quân lính di chuyển hoặc hướng dẫn máy bay không kích nếu bị "nhiễu" thì việc nghiêng cán cân chiến tranh quá rõ. May mà Mỹ là nơi tập trung hầu hết các big media. Người Mỹ cạnh tranh và có nhiều sáng kiến, sáng chế. Một số quốc gia khác, sống rất thanh bình, êm ả vì ít người cạnh tranh. Các quốc gia này chỉ việc "xài" đồ do Mỹ cực khổ tìm ra. Ô nếu vậy thì đừng trách Mỹ là đế quốc, là sen đầm quốc tế nhé!

HOÀNG LAN CHI

3/2022

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on HLC- khi khác ý nên phản bác, không mạ lị; Hãy giữ gìn không gieo hạt bậy; Chính trị làm lu mờ sinh hoạt văn hóa, big media sẽ thống trị thế giới. April 1, 2022

HLC-Mạ lị, phê bình, cho ví dụ ” độc”, Ô Tích mạ lị cộng đồng ng ười Mỹ Việt khi dùng “Bộ lạc Bolsa”- April 2, 2022

Trích LanChiYesterday-Những vụn vặt đời sống quanh tôi

MẠ LỊ KHÁC VỚI PHÊ BÌNH- Ô TÍCH GỌI "BỘ LẠC BOLSA" LÀ MẠ LỊ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở BOLSA

MẠ LỊ KHÁC VỚI PHÊ BÌNH

MẠ LỊ: Khi không cùng suy nghĩ về một vấn đề thời sự nào đó, vài người đàn ông đã mạ lị người khác là ( con đ.., mụ tú bà, bán vốn tự có…). Những mạ lị này nếu bị thưa ra tòa có thể bị phạt. Lý do: những người phụ nữ đó có chồng con đàng hoàng và họ chưa hề hành nghề "mãi dâm" tức là bán dâm để lấy tiền. Tại vài quốc gia thì nghề "mãi dâm" được công nhận như các nghề khác nhưng với văn hóa VN thì chưa. Mặt khác, nghề này vẫn bị đa số người VN "khinh bỉ".

PHÊ BÌNH CÁCH THỨC LÝ LUẬN: Khi không cùng ý kiến về một vấn đề nào đó, vd Ổi đưa ra lập luận về việc làm của Trump thì bà Xoài có quyền ghi "stupid". Cái chữ "stupid" ở đây ám chỉ cách lập luận của Ổi là "ngốc, ngu". Cái chữ "stupid" trong ngữ cảnh đó không ám chỉ vào tư cách của một người.

Do đó không thể nói đó là mạ lị.

Tôi viết cái này vì có nick Phong Tran nào đó ở các diễn đàn đã KHÔNG HIỂU THẾ NÀO LÀ MẠ LỊ, THẾ NÀO LÀ PHÊ BÌNH CÁCH LÝ LUẬN CỦA NGƯỜI KHÁC nên Phong Tran cho ý kiến rằng ( bà HLC nói không nên mạ lị quá hay. Theo tôi chỉ nên dùng stupid như khi xưa bà HLC dùng chữ stupid với tôi ). Mục đích Phong Tran là mỉa mai tôi nhưng tôi đã giải đáp cho Phong Tran hiểu và không hy vọng ông ta nhớ. Mai mốt, có thể ông ta sẽ "repeat" lại điều này. SƠn Trần cũng vậy. Mọi người đã giải đáp về lý luận XYZ của Son Trần nhưng ông ta vẫn phe lờ, coi như không có, vẫn tiếp tục "nhai lại". Kết quả: nhiều người đã nổi giận và lời lẽ dành cho Son Tran càng ngày càng nặng nề. Tuy vậy có vẻ Son Trần không còn biết xấu hổ nên vẫn phe lờ, vẫn tiếp tục nhai lại.

CHO VÍ DỤ KIỂU XYZ LÀ "CHUA CAY/CAY ĐỘC" KHÔNG PHẢI LÀ THIẾU VĂN HÓA

Tương tự có vài người đàn ông cũng không hiểu và cho rằng các ví dụ trong các bài viết về thời sự của tôi là "thiếu văn hóa"!!

Thiếu văn hóa là khi dùng từ ngữ dơ bẩn ví dụ ( con đĩ, thằng điếm, chửi ĐM…) còn các ví dụ của tôi, xét đúng là" chua cay" hoặc "cay độc" tùy trường hợp. Chẳng hạn tôi từng cho ví dụ với những người hay chỉ trích Trump sai như (Nguyễn Tài Ngọc, Phúc Linh, Mai Loan, Sơn Trần…). Tôi viết mỉa mai, diễu cợt thì lại khác. ( vd tôi mỉa mai bà QML ở Pháp như sau: hãy ngồi bên cửa sổ ngắm lá vàng rơi bên giòng sông Seine thay vì cho ý kiến sai về luật bầu cử của HK)

BỘ LẠC BOLSA CỦA CỤ TRẦN VĂN TÍCH

Cụ Tích là cư dân Đức, nguồn gốc là Bác Sĩ quân y. Có người nói cụ là hồi chánh viên (?) làm tôi không biết sai/đúng thế nào. Tuy nhiên mail cụ viết ( được vài người đăng lại, vụ cụ nói cụ được vc đãi ngộ, vụ bài cụ viết do ai đó dịch nên Biden nghe lời cụ, tuyên bố Putin là "tội phạm chiến tranh"…thì dường như cụ có viết như thế thật. Mới nhất, cú có "tối kiến", đặt tên cho khu Bolsa ( rất đông người Việt và được coi là Little Sài Gòn ) là "bộ lạc".

HLC thấy bài trả lời cụ Tích của ô Nguyễn NGọc Khôi rất đầy đủ, xin được đăng lại. Cụ Tích đặt tên như thế là có ý "miệt thị" dân Mỹ-Việt ở Bolsa. Tôi nhớ năm xưa, ông nào đó, dường như Bác Sĩ thì phải ở Canda đặt tên "Mỹ giấy"!! Kỳ cục, kỳ lạ cho mấy cụ Bác Sĩ này ghê.

COPY BÀI CỦA NGUYỄN NGỌC KHÔI TRẢ LỜI VỤ Ô TRẦN VĂN TÍCH GỌI "BỘ LẠC BOLSA"

Vào tháng giêng năm 2021, Victor Davix Hanson (Cộng Hoà bảo thủ) cho ra cuốn sách The Dying Citizen. Trong cuốn sách có nguyên một chương nói về Tribes tại Hoa-Kỳ. Cuốn sách rất mới, tôi có thể sai nhưng không nghĩ đã được dịch sang tiếng ngoại quốc, thí dụ như Pháp ngữ hay Đức ngữ.

Cuốn sách nói về tình trạng nhiều chủng tộc và nhiều văn hoá trong nước Mỹ, và nói về kỳ thị giữa chủng tộc giữa các chủng tộc và văn hoá khác nhau. Ngoài ra tác giả còn nêu lên những nhóm người trong xã hội với những quyền lợi, ưu tiên khác nhau như thành kiến giới tính, LGBT(những người đồng tính luyến ái và giới chuyển giống). Họ tranh đấu cho quyền lợi riêng tư của họ chứ không có lý tưởng chung với dân tộc. Từ từ ngữ Tribes tác giả dùng, từ ngữ tribalism đã lan khắp nơi và lạ thay đảng Dân Chủ lại hay dùng nhiều hơn Cộng Hoà.

Ông Bác Sĩ Nguyên Văn Tích, ở mãi tận Đức, không hiểu nguồn gốc và nguyên do mới của từ ngữ tribalism đã dịch sang tiếng Việt là “Bộ lạc” và dùng từ ngữ “Bộ Lạc Bolsa”. Ông còn cả gan gán anh em nào thuộc đảng Cộng Hoà tại Mỹ là có “văn hoá bộ lạc”. Một lối miệt thị không thể chấp nhận được.

Trước khi đi vào vấn đề, tôi xin xác định hai điều:

1. Trong Quân Y có truyền thống đàn em tôn trọng đàn anh. Tôi cũng theo truyền thống này khi người niên trưởng giữ được tư cách đàn anh của mình. Đi quá lằn ranh nào đó, người niên trưởng không đáng được hưởng sự tôn trọng nữa.

2. Tôi đã để ra nhiều ngày để lòng bớt giận dữ với mục đích bỏ đi những xúc cảm ban đầu cho bài viết được khách quan hơn.

Khi dùng từ ngữ này, ông Tích có thể nhắm vào một trong hai mục tiêu:

A. Những người không đồng ý chính kiến của ông ta (ông Tích ủng hộ Biden chống những anh em theo đảng Cộng Hoà mà ông cho là ủng hộ Trump, một thái độ vơ đũa cả nắm). Tôi xác nhận không theo đảng nào nhưng rất kỵ Biden vì coi ông ta như một lão già lẩm cẩm. Khác chính kiến không cho phép mạ lị phía chống đối. Victor Davix Hanson là một người viết sách, ông có thể dùng nhiều từ ngữ để tả những nhóm người khác nhau, vấn đề của một nước Mỹ chia rẽ, phân hoá. Nhưng khi ông Tích dùng từ ngữ này trên diễn đàn riêng của SVHDQY, ông Tích đã đương nhiên thoá mạ anh em, một cử chỉ bất công, bất xứng của một đàn anh. Đã có nhiều người lên tiếng, trong đó ôn tồn và nhã nhặn nhất có BS Phạm Anh Dũng đã cố gắng dùng lời lẽ nhẹ nhàng và lễ độ với hy vọng khuyên ông Tích ngưng dùng từ ngữ “bộ lạc Bolsa” xấu xa này. Nhưng ông ngoan cố, nguỵ biện, cà kê dê ngỗng. Ông chỉ là một kẻ ngạo mạn. Ông đã ngạo mạn, khoe khoang từ lâu. Ông đã khoe nhờ bài viết đòi Toà Án Quốc Tế lên án Putin là phạm nhân chiến tranh, và ông cho là nhờ bài của ông được dịch sang tiếng Anh nên Biden nghe lời cùng lên án như ông đề nghị. Trong suốt mấy năm trời trên diễn đàn, ông còn khoe khi bị Việt Cộng cầm tù, ông làm việc với chúng và được chúng phát lương $100 mỗi tháng và được chúng cho đi nghỉ hè Vũng Tàu để làm thông dịch viên. Nhiều vị trong diễn đàn đã đặt vấn đề ông là Việt Cộng hay là gián điệp hai mang vì trước kia ông làm y-sĩ trong Trung Ương Tình Báo VNCH. Tôi nghĩ khác: ông chỉ là một người đa ngôn, hoang tưởng tự đại (megalomania), thiếu tự tin của người loạn thần kinh (neurotic insecurity). Có thể ông hợp tác với địch. Như vậy ta tạm gọi là cộng tác viên với địch. Từ ngữ collaborateur của Pháp nặng hơn vì ám chỉ sự khinh bỉ trong đó. Ông cũng không thông minh gì hơn ai: ông đã dịch “Trời sinh” là "God gives binh"… thay vì God creates như có đồng nghiệp khác khuyên. Ông không biết là đạo Thiên Chúa Giáo coi Thượng Đế là người với giáng hình đàn ông. Đàn ông thi không thể sinh đẻ được…

B. Nếu khi dùng từ ngữ “Bộ Lạc Bolsa” với ý ám chỉ tất cả những người Việt Nam trốn thoát Cộng Sản và lập nghiệp tại Nam California thì quả là một trọng tội. Ở Đức với một nhóm người Việt nhỏ nhoi trong đó có cả người CS trước kia sống bên Đông Đức, ông biết gì về người Việt tỵ nạn bên Mỹ, mặc dù ông cho các con ông sang du học bên Mỹ với hoài bão được ở lại Mỹ trong khi chính ông không được ân huệ đó? Ông biết gì về 7 Tướng Lãnh gốc Việt trong quân đội Hoa-Kỳ gồm có: Thiếu Tướng Lương Xuân Việt, Thiếu Tướng Châu Lập Thể Flora, Thiếu Tướng William H Seely III (cha Mỹ, mẹ Việt), Phó Đề Đốc Nguyễn Từ Huấn, Chuẩn Tướng Danielle J. Ngô, Phó Đề Đốc Vũ Thế Thuỳ Anh, Chuẩn Tướng J. R Adwards (lai Việt Nam)?

Ông biết gì về hai thế hệ Y Nha Dược Sĩ gốc Việt đang phục vụ đắc lực cho cộng đồng gồm Mỹ trắng, Mỹ gốc Phi Châu và gốc La tinh ngoài bệnh nhân Việt Nam?

Ông biết gì về bà cụ quấn khăn đóng, mặc dù tuổi cao đã có tiền an sinh xã hội, nhưng tư cách hơn ông, vẫn ngồi bán rau thơm trước cửa chợ ABC?

Đó là hình ảnh Bolsa của những người sống cạnh Bolsa. Sao ông dám gọi những người này là “ có văn hoá Bộ Lạc Bolsa”?

Tôi đã viết thư cho các vị trong Ban Chấp Hành diễn đàn SVHDQY, xem có nên viết cho ông Trần Văn Tích một lá thư khuyên can ông từ nay cẩn thận trong việc viết lách của ông. Tôi kiên nhẫn chờ đợi quyết định của các vị này. Dù cho các vị đó nể tình huynh đệ không viết, tôi cũng thông cảm. Riêng tôi, tôi cũng hiểu một phần nào thái độ của ông: hiện tượng cao niên bị “nhũn óc”, những trung tâm thần kinh kìm hãm (inhibitory Centers) đã bị phá bỏ, nên ông hành động như một ông già tôi được biết trong dĩ vãng ở chợ Vườn Chuối, lẩn thẩn đến độ tụt quần giữa chợ, chửi bới om xòm.

Với những người này, tôi chỉ cần trong tương lai giữ im lặng vì im lặng là coi thường.

Tôi cũng cần tự nhắc tôi: năm sau đã 80, tôi cần tự trọng, lễ độ với bạn trẻ hơn tôi, không đa ngôn huênh hoang, mắc phải chứng logorrhée mégalomaniaque.

Thân mến,

Nguyễn Ngọc Khôi SVHDQY16

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on HLC-Mạ lị, phê bình, cho ví dụ ” độc”, Ô Tích mạ lị cộng đồng ng ười Mỹ Việt khi dùng “Bộ lạc Bolsa”- April 2, 2022

Không phải mùa Thu mà sao em vàng lá- Nov 21, 2021

Trích LanChiYesterday-Những vụn vặt đời sống quanh tôi

Không Phải Mùa Thu Mà Sao Em Vàng Lá

Hôm nọ ra vườn thấy cây cối lá đổi vàng, "Bà Tổng" HLC ứng khẩu:

Không phải mùa Thu mà sao em vàng lá

Để lòng ta cũng héo úa theo em

Và còn mấy câu nữa nhưng quên mất tiêu rồi.

Cây xoài giống R2A2 rất ngọt mà hư không thể tả. Năm nào cũng chỉ cho một trái. Tôi giận và không thèm nói chuyện với nó nữa

Bưởi năm roi mới mua hồi tháng Bẩy. Hoa thơm và nhiều. Tước hết để nuôi rễ vậy mà tháng 10 lại ra hoa. Trời gió lộng và hiện tại bưởi còn bốn trái. Chụp ở mé này chỉ thấy hai. Bưởi cao lắm, chỉ có một mét thôi!

"Bà Tổng" HLC là người hay có sáng kiến. Aphid tấn công vườn hồng. Tôi phải cắt trụi hết và treo túi tỏi. Thế là cây hồng thành cây tỏi! Chưa hết, hôm nay để mười giờ dưới gốc. Thế là hơn 10 chậu hồng đang trơ trọi buồn hiu bỗng tưng bừng khoe sắc. Thế đấy, cỏ cây cũng cần có đôi để vẻ đẹp được nhân đôi!

Úi chu choa, cây sứ Thái trơ cành vào mùa Đông và tôi làm một vòng hoa bao quanh, treo lủng lẳng petunia trông rất đẹp. Bây giờ sứ đã xanh lá và trổ hoa vàng rất đẹp, thơm ngát. Có điều đáng tiếc là hoa rụng mỗi ngày. Phải chi hoa cứ ở trên cành một tháng thì hay biết mấy.

Không chỉ nhặt hoa rơi mà còn phải tỉa tót. Những chậu petunia không còn đẹp vì cành đã dài được kéo vào nhà kho để cắt. Mấy chậu hư để cạnh nhau san sát nên che được khoảng trống. Thế mà lại đẹp. Thấy chưa, khi "đoàn kết", khi " quây tụ" thì "một cây làm chẳng nên hoa, ba cây chụm lại ra tòa thiên nhiên"!

Khu Vườn Noel mới thêm cảnh này. Hôm nay trang trí lại. Giữa các cỏ giả là đá tổ ong đỏ để che các mối nối. Đấy, cây cối được trình bày theo chủ đề và có cảnh chứ không chỉ là các chậu cạnh nhau . Giữa vườn là con hươu kéo xe cho ông già Noel và cactus. Bên cạnh là chậu hoa 10 giờ tròn

Cô kia ghé và kể " Con đi tới đây, không cần nhìn số vì cứ cái cổng mầu tím là biết nhà cô Lan Chi. Với lại cứ nhìn vườn hoa là cũng biết là cô. Đa số cao niên VN trồng hoa là rất nhiều và cạnh nhau san sát. Cô không vậy. Cô xếp hoa lá thành tiểu cảnh. Mỗi góc là một cảnh. Nó là "phong cách" riêng của cô"

Ừ hén. Con bé nhận xét tinh tế. Các nhà cao niên VN đúng là rất nhiều chậu cạnh nhau. Tôi chỉ có 5-6 khu. Khu nào cũng gọn trong hàng rào nhỏ. Khu hồ nước. Khu hoa sứ với hoa lá theo mùa. Khu cactus cũng là tiểu cảnh với suối đổ và đường mòn quanh co. Khu Vườn Noel là bồn hoa tam giác và bồn hoa thấp cũng được mix hoa theo nghệ thuật chứ không cắm đại. Vòng theo cây thông hôm nay được đổi style: toàn một mầu xanh nõn của sedum. Khu hoa hồng và lan thì dăm chậu cạnh nhau và cuối đường là lưới cáo.

Chắc vài tháng sau buồn buồn tôi lại đổi style khác. Tôi không thích phong cách "tĩnh lặng" chỉ toàn đá và thông, tùng bách kiểu Nhật vì tôi rất mê hoa. Tôi thích ngắm hoa đủ màu sắc. Kiểu Nhật chỉ toàn một màu xanh tôi thấy buồn. Nó tĩnh lặng quá.

Âm nhạc là một quà tặng của Thượng Đế. Hoa lá cũng là quà tặng của Thượng Đế. Tôi đã được nhận hai món quà rồi đó. Bạn thì sao nhỉ?

Hoàng Lan Chi

11/2021

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Không phải mùa Thu mà sao em vàng lá- Nov 21, 2021

Nguyễn Văn Lục- Nguyên Sa của một đời và của một thời- Nov 13, 2 021

LGT: bài dài như thường lệ! Thì công phu, thì sưu tầm kỹ lưỡng. Vì thế Ông Nguyễn Văn Lục hay viết dài. Xem cho biết. Thì cũng biết được nhiều điều vì ô Lục góp nhặt từ nhiều nguồn chen vào đó là những nhận định của ông. Ô Lục thích Nguyên Sa. Cũng phải thôi. Họ cùng trang lứa thì phải. Họ cũng là phải nam như nhau. Và có lẽ tư tưởng, lập trường chính trị quốc gia của một số văn nghệ sĩ trạc tuổi đó, có vẻ như nhau. Thật tình nếu không lười thì tôi cũng thích phỏng vấn một số người -của thời đó- để tìm hiểu vì sao họ giống nhau đến vậy. Cái "giống nhau" mà tôi cứ tạm cho là "phảng phất" đi là sống trong xã hội thời ấy mà hơi "hờ hững" với thời cuộc nếu không nói là …họ hơi thân tả. Thân tả có nghĩa họ không có tinh thần quốc gia mãnh liệt chứ họ không thích gì cs. Cũng có những cái tôi không đồng ý với bài viết nhưng lười chả muốn tách bạch. Tôi có thể thích Nguyên Sa vì thuở mới lớn, sinh viên, cũng thích "Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc" nhưng không thể nhá nổi " buồn như con chó ốm". Tôi không giống họ vì tôi nhỏ tuổi hơn họ, tôi là nữ, tôi yêu quê hương từ bé, tôi ghét cs ghê gớm. Có lẽ thế mà tôi yêu thơ Vũ Hoàng Chương hơn. Tôi thích cái “bi hùng” trong Ta Về của Tô thùy Yên ( cho dù Yên, cũng hao hao giống Nguyên Sa về cái lập trường quốc gia)

Thì thôi, nếu bạn thích Văn Học Nghệ Thuật thì cứ xem cho biết. Vậy nhé

À cũng phải ghi chú thêm, ông Lục và tôi có trò chuyện với nhau vài lần. Giọng Bắc ấm. Lục cũng có góp ý với tôi về vài vấn đề mà nay tôi quên mất rồi.

Nguyên Sa của một đời và của một thời

Nguyễn Văn Lục

Về một cõi thơ tình đột sáng chất ngất.

Nguyên Sa là một tên tuổi quá quen thuộc. Nhất là trong lãnh vực thơ tình kéo dài cả hơn 10 năm. Trước ông , có nhiều thi sỹ thế hệ tiền chiến. Như Nguyến Bính (1918-1966) với những mối tình vu vơ và đầy lãng mạn. Và những đàn anh như Đinh Hùng với Đường vào tình sử ; hoặc cao sang như Vũ Hoàng Chương trong tập Mây.

Tiếp đến là thế hệ thi sĩ đồng thời, ngồi cùng chiếu với ông như Quách Thoại (mất sớm, ngay từ những ngày đầu của báo Sáng tạo. NVL) Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Diễm Châu, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng. Và nhiều thi sĩ khác.

Và có thể nói, mỗi người một phong cách thơ. Mỗi người một vũ trụ thơ như một cõi riêng.

Thật vậy, cùng làm thơ Tự do, đều là « thơ hôm nay » nhưng có điều gì khác giữa Nguyên Sa và Thanh Tâm Tuyền?

Phải nói một lần là số người khởi nghiệp cầm bút ở Việt Nam thường bắt đầu làm thơ nên con số hàng trăm thi sĩ đủ loại. Nhưng được nhìn nhận và mến mộ thì không nhiều như Trần Long Hồ (bác sĩ y khoa) đã nhận xét.

Tác giả Trần Long Hồ trong bài viết : Nguyên Sa, Thơ Tình giữa hai đầu thế kỷ cho rằng : «Từ cổ chí kim, không có thơ nào như thơ Nguyên Sa được lứa tuổi học trò yêu thích đến mức độ gần như đâm mê. Họ trân quý chép thơ Nguyên Sa, ghi khắc trong tim, chuyền tay nhau đọc và tha hồ mơ mộng, rồi thả hồn bay khỏi lớp, phiêu diêu khắp bốn phương. » Và tác giả kết luận : « Nếu thơ tình Việt Nam như một dòng sông, Nguyên Sa không ở đầu sông, mà ông chẳng ở cuối sông , thơ tình Nguyên Sa chính là cả một dòng sông chảy suốt hơn bốn thập niên.»

( Trần Long Hồ. 05-/98)

Giải thích hiện tượng Thơ Tình của Nguyên Sa có thể có nhiều lẽ lắm.

Về hình thức, có thể là phong cách tự sự, nghiêng về văn xuôi, như một thứ văn vần, thường dùng thể thơ lục bát- một thứ «lục bát Nguyên Sa», hay đầy âm hưởng ca dao. Hoặc nó đầy nhạc điệu. Hoặc nó còn được người ta gọi là thơ phá thể. Thơ ấy, còn dùng nhiều điệp khúc, láy đi láy lại mà không nhàm chán.

Về nội dung, Thơ Nguyên Sa gần gũi, mới, lạ lùng, hấp dẫn, ngôn từ tuôn chảy tự nhiên mà không gò ép, mà cũng không có những tiếng khóc than, tiếng thở dài với nước mắt hoặc day dứt đứt gánh, hoặc tuyệt vọng, gẫy đổ.

Nó quen thuộc mà lạ quá như thể lần đầu tinh khôi, chưa một lần được nghe đến.

Nói đúng ra là sự sáng tạo không giả tạo, không bắt chước. Nó cũng không làm dáng trí thức với từ ngữ triết lý bởi vì ông vốn là giáo sư Triết. Ông thong dong trong cõi thơ mà không bị luẩn quẩn trong các từ ngữ triết học như một số người thường làm.

Nói đến Nguyên Sa, thơ ông đắt giá là ở chỗ ấy nên người ta không thể không nhắc đến :

Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát

Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.

Anh vẫn thương màu áo ấy vô cùng

Nhắc đến áo lụa Hà Đông thì có gì mới lạ ? Nhưng trong ngữ cảnh toàn bài thơ thì nó trở thành quyến rũ, say mê lòng người. Tôi cũng muốn nhấn mạnh là Thơ Tình Nguyên Sa- dù ở Paris – thì bối cảnh vẫn là khung trời Sài gòn. Nắng Sàigon, tháng sáu trời mưa Sàigòn, áo Sàigòn, em Sàigòn. Ông vẫn quay quắt với Sài gòn theo cái kiểu « Sài gòn đẹp lắm, Sài gòn ơi…)

Vì thế một số bài thơ tình nổi tiếng của Nguyên Sa đã được nhạc sĩ Ngô Thụy Miên phổ nhạc. Thơ và nhạc như có cơ duyên cùng cất cánh bay lên. Đó là các bài Áo lụa Hà Đông, Paris có gì lạ không em. Tuổi mười ba, Tháng sáu Trời mưa

Chỉ trừ một lần. Một lần thôi : Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng (Áo lụa Hà Đông). Hay «Paris có gì lạ không em».

Thơ ấy nó như bắt chợt, như khởi đầu. Như một khối tinh nguyên, tinh vẹn hình hài. Nó vượt trên tất cả. Nó ới gọi tuổi trẻ mà không phải như một khích động. Mà như một tiếng thì thầm êm dịu. Mặc dầu vậy- một mâu thuẫn nội tại- Tôi chưa từng nghe rôn rang một cô gái nào, dù yêu thơ Nguyên Sa lại là người tình của thi sĩ ?

Cuối cùng thì nói bao nhiêu cũng không vừa. Càng biện biệt, phân tích, càng phân lìa. Có khi ta chỉ đọc và ta cảm nghiệm thôi.

Nhưng có lẽ hay hơn cả là hãy để Nguyên Sa tự giãi bầy về thơ ông. Trong cuốn sách Hành Trình Đức Tin. Những trường hợp về Đạo Chúa, 2014, Ông lý luận như sau :

  • Về phép làm thơ – Vần thơ có vần chính, vần thông, vần cưỡng áp và lạc vận. Vần chính không cần sự hỗ trợ, không cần sự phối âm, nhưng việc xử dụng những nền âm thanh khác biệt có khả năng làm cho vần thông thành vần chính. Vần cưỡng áp ngay cả vần lạc vận cũng được nắm tay giữ được trong khoảng không gian giữa trời đất mênh mông. » ( sách Nguyễn Đức Tuyên đã dẫn, trang 247).
  • Chủ đề Tình yêu- Đề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian. Trước năm 1963, tình yêu đó thuần túy những cảm xúc, những đam mê. Đó là niềm đam mê lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè hãi sợ, lúc ngỏ lời, lúc không dám ngỏ. Nhưng về sau, lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê tình ái không còn nữa, như xao xuyến về một vạt áo trong sân trường, như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai không còn nữa. Thời gian xóa bỏ nhiều thứ. (sách Nguyễn Đức Tuyên đã dẫn, trang 248)

Cuộc đời và nhân thân của Nguyên Sa

Có một chi tiết cần viết thêm ở đây là : Trong cuốn Hành Trình Đức Tin của tác giả Nguyễn Đức Tuyên có ghi chú theo lời kể của Nguyên Sa thì ông không phải người gốc Bắc chính hiệu, dù sinh đẻ ở Hà Nội. Ông cố Nội ông là Thượng Thư Trần Trạc, giữ chức Hiệp tá Đại Học Sĩ trong triều đình Tự Đức. Đời ông nội mới ra Hà Nội. Năm chiến tranh 1946, gia đình ông tản cư về Hà Đông, ông bị Việt Minh bắt cóc lúc 15 tuổi.

Ông có kể lại chi tiết việc bắt giam này như sau : Ông bị giam tại trại Văn Đình. Trại giam Hòa Bình, rồi trại giam Sơn Tây. Ông phải vào rừng ăn trộm củ sắn và được phép cán bộ cho ăn cùng bạn tù. Khi máy bay Pháp tới oanh tạc, mỗi toán ba người trói tay vào nhau do lính cộng sản dắt đi, súng kề vào đầu phòng hờ khi phi cơ Pháp thả dù xuống nơi đó là bắn bỏ các tù nhân trước khi rút lui. (Trích bài Kính mừng Maria in ở hải ngoại).

Hồi cư về Hà Nội, ông mới được gia đình gửi sang Pháp, học Trung Học năm 1949. 1953, đậu tú tài Pháp. Ông ghi danh học đại học Sorbonne về triết học. Hầu hết các bài thơ Tình đều làm trong thời gian này. Năm 1955, ông lập gia đình với Trịnh Thúy Nga. Được biết đám cưới cực đơn giản.- Không ai cưới. không nhà hàng. Không bố mẹ đôi bên. Chỉ một nhóm nhỏ bạn bè rủ nhau ra quán cà phê.

Vậy mà họ đã nên vợ chồng, sống trọn đời bên nhau.

Đầu năm 1956, hai người mới về Việt Nam.

Ông sinh ngày 1-3- 1932, tại Hà Nội trong một gia đình khá giả. Có đến sáu người con. Ông là anh cả. Còn lại là gái và trừ người em út là em trai. Lần lượt các em ông là Trần Thị Kim Thoa, Trần Thị An, Trần Thị Kim Cang, Trần Thị Kim Anh và Trần Văn Chang.

Phần ông bà có ba người con hai nam, một nữ. Trần Minh Triết, Trần Văn Học, Trần Nương Thơ. (Triết-Học-Thơ. Quả là khéo đặt tên).

Ông mất ngày 18-4-1998 tại California với tên nhà thơ Nguyên Sa, Giuse Trần Bích Lan.

Xin ghi lại đôi lời tạm biệt trước giờ hạ huyệt ngày 22-04- 1998 của người em kết nghĩa Trần Dạ Từ- Nhã Ca.

Là đứa em trong tinh thần gia đình và đời sống văn học của nhà thơ Nguyên Sa, tôi xin có đôi lời về người anh lớn của tôi.

Thi sĩ có tài phân thân thành muôn mảnh. Chàng phân thân vào hạt cát vào giọt nước, hợp lại thành núi non, sông biển. Chàng phân thân vào hơi gió, vào nắng, vào mưa, hòa tan cùng lòng người.

Muôn mảnh phân thân của nhà thơ hôm nay, gom lại đôi bờ.

Âm dương hai ngã. Như thơ Phân thân của Nguyên Sa:

“ Này đây, tả ngạn làm thơ

Còn kia hữu ngạn ngồi chờ tin em

Cái người năm ấy em quen.

Phân thân nửa ở bên em, nửa về”

Nửa về của nhà thơ là thể phách, chúng ta đang đưa tiễn.

Thưa chị Nga và các anh chị em.

“ Nửa ở bên em” của nhà thơ là tinh anh, là tình yêu, ở mãi bên chị, ở mãi cùng chúng ta, ở mãi cùng sự sống.

Thưa anh Nguyên Sa,

Cám ơn anh đã tới trong đời em, như người thầy, người bạn, người anh.

Xin tạ ơn trên cho gia đình chúng ta có anh, và thời đại chúng ta có Nguyên Sa thi sĩ.

Trần Dạ Từ

Phải nói sống đẹp và chết đẹp. Nguyên Sa của một đời và của một thời

Đôi dòng khép lại và tiếp tục hành trình Nguyên Sa của cả một thời

Hành trình thơ cũng như trí thức của Nguyên Sa là một đoạn đường dài. Bắt đầu từ ngoài nước đến về Việt Nam cho đến 1975. Sau đó chặng đường cuối là tại hải ngoại.

Mỗi chặng đường là một cột mốc, đánh dấu một thời kỳ dựa trên các câu hỏi: Viết ở đâu, viết lúc nào, viết cho ai, viết để làm gì và tại sao viết.

Nắm bắt được những tiêu chí đó sẽ giúp giải đáp được một phần sự đóng góp cũng như đánh giá công bằng về tác giả.

Cứ cho rằng, ông bắt đầu làm thơ trong những năm du học trung học, rồi đại học Sorbonne. Và cuộc gặp gỡ bà Nga, một sinh viên theo ngành toán học, còn ông triết học. Mối tình đầu đã nở hoa và với vô số bài thơ viết riêng cho Nga mà không đăng như kỷ niệm giữ riêng cho mình. Và chỉ phổ biến sau này khi đã kết đôi lứa.

Đây là những bài thơ tình tưởng chỉ dành cho hai người, trở thành một thứ hiện tượng văn học muôn thuở đi vào văn học bằng cửa chính mở toang.

Thơ ấy mỗi thời điểm là mỗi khác biệt len lỏi vào tâm tư, tình cảm của lớp người trẻ. Cái chính là đọc thơ Nguyên Sa, người trẻ thấy mình trong đó, một gia tài chung mà lại riêng cho từng người.

Nó như thể đốn ngã và lấp kín một cách ngoài ý muốn các nẻo đường văn học khác theo cái nghĩa “vượt trội” hay thì người ta tìm đọc của đám đông.

Chẳng hạn Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng vẫn có chỗ đáng kính dành cho các ông. Thanh Tâm Tuyền, Quách Thoại, Cung Trầm Tưởng cũng vậy. Mỗi người là một đặc sản.

Và điều đó cũng là cá tính làm nên văn học, nghệ thuật miền Nam. Sự đa dạng và sự cá biệt bao hàm tự do. Và thơ Nguyên Sa là biểu tượng cho một thời miền Nam khó phủ nhận. Và khó quên đối với mọi người.

Thơ ông đi vào lòng người và ở lại như chốn quê nhà mà không là quán trọ.

Và đã có lần Nguyên Sa tự nhận mình một cách “hài ước” là Công tử Nguyên Sa. Bài thơ ý lạ, hiếm mà ít người biết đến nên tôi ghi lại ( Hoàng Hải Thủy có danh hiệu là “ công tử Hà Đông” cũng cùng một lẽ chăng?)

Ta là công tử đời xưa

Nàng xuống ngựa đứng chờ rất ngoan

Tay cầm chiếc lọng vua ban

Vai mang võng tía có nàng nằm trên

Ta đi giữa phố Sài gòn

Với thơ với nhạc với làng mạc quen

Với trăng trên áo hoa vàng

Với chim thần thoại chỗ gần cuối môi

Ban mai ở chỗ nàng ngồi

Buổi chiều bên suối đêm dài dưới chân

Chín lần ở dưới gót chân

Chín con rồng đỏ có hình dáng ta

Nhẹ nhàng áo gấm hòa hoa

Xin trời biển với chiều tà chút mây. »

( Bài thơ này nhiều người không hay, trích trong trang bìa Nguyên Sa (1956-1975). Nxb Nam Sơn. Montréal, Juillet 2004)

Và cứ thế, cứ thế, ông nhẹ đi vào đời với những bài thơ như «Tháng sáu trời mưa » trong tập thơ Nguyên Sa một, những năm 1950. Tỏ tình ngọt « như uống ly chanh đường ». Với những điệp khúc láy đi láy lại trong mỗi dòng mà không thừa, nhàm chán. Nó có vẻ như phảng phất trong ngôn từ của họ nhạc sĩ họ Trịnh. Phải chăng các đấng thiên tài có một điểm đồng quy. Giống mà khác ?

Tháng sáu trời mưa không ngớt

Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa

Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về

Và đêm ơi xin cứ dài vô tận.

Và một bài thơ nhan đề vỏn vẹn có chữ « Nga », làm tại Pháp năm 1954 :

« Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm

Như con mèo ngái ngủ trên tay anh

Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình

Để anh giận sao chả là nước biển

Tại sao Nga ơi, tại sao..

Đôi mắt em nghẹn như sát từng lần vỏ hến

Hơi thở trũng như sợi chỉ không căng.

Bước chân không đều như thước kẻ làm cong

Ai dám để ngoài mưa, ngoài nắng ! »

Đọc một đoạn khác trong bài « Tuổi mười ba » mà bất cứ ai cũng phải thuộc

Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc

Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường

Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương

Tôi thay mực cho vừa mầu áo tím…

Thôi thì nói sao cho vừa. Ví người yêu như con chó ốm, như con mèo ngái ngủ thì chỉ Nguyên Sa làm được. Dễ thương chi lạ. Thơ Nguyên Sa như một dòng sông mà bao giờ chúng ta múc cạn được một dòng sông đang tuôn chảy?

Tuy nhiên Viết lúc nào, viết cho ai, vì sao viết đã có những câu trả lời thích đáng cho từng thời kỳ.

Nguyên Sa từng thời điểm đã được ghi dấu những khác biệt.

Nguyên Sa những năm 1950 không giống với Nguyên Sa thập niên 1960.

Nguyên Sa khi cộng tác với Sáng Tạo đã hẳn không giống với Nguyên Sa trên tờ Đất Nuớc, nhất là tờ Trình Bày.

Nó xác định một cách công khai và rõ rệt một thái độ trí thức của người cầm bút trước hiện tình đất nước.

Nó cũng cho thấy những khác biệt riêng của một Nguyên Sa thời kỳ VNCH đến 1975 và thời kỳ sau 1975 khi ở hải ngoại.

Ở Hải ngoại Nguyên Sa viết được gì?

Ngay trong thời kỳ 1954-1975 cũng phải phân định hai thời kỳ : thời kỳ Đệ I và Đệ II Cộng Hòa.

Thời kỳ Đệ I tương đối thanh bình, an lạc ý hướng viết khác. Thời kỳ Đệ II chiến tranh lan rộng, bản thân nhà thơ phải nhập ngũ, ý hướng sáng tác mang tính cách dấn thân, nhập cuộc. Tập thơ “Những năm 60” đã bị chính quyền kiểm duyệt, không cho xuất bản. Thế Nguyên, chủ nhân nxb Trình Bày đã buộc lòng in ronéo 200 bản gửi bạn bè làm kỷ niệm. Vì thế mà hiện nay những bài thơ đó còn được giữ lại.

Nhưng chính vì thế, người đọc thơ Nguyên Sa thời VNCH những năm 1954 ít biết đến thơ văn này như thể “ngoài văn chương” nếu họ không có cơ hội đọc 18 số Đất Nước, 42 số Trình Bày, 25 số Nghiên cứu Văn Học.

Và đó là sự khác biệt. Người ta không thể đòi hòi một sự thuần nhất và liên tục trong thơ ông; Thơ trước là thơ Tình, lãng mạn, mang tính cách tiểu tư sản thành thị trong một xã hội an bình.

Chiến tranh ngày một lan rộng, tiếng đại bác dội về thành phố, tâm trạng con người bất an. Thái độ sống chuyển động. Và đã đến lúc đòi hỏi nhà thơ phải có một thái độ nào đó trước thời cuộc.

Nhiều khi phải thú thực, tôi không đồng ý với Mai Thảo năm 1954 cũng là Mai Thảo những năm 1969, rồi 1975. Rồi Mai Thảo hải ngoại.

Mai Thảo hầu như suốt cả đời vẫn là Mai Thảo.

Rời bỏ nền văn chương trú ẩn

Bài viết này của Nguyên Sa, đăng trên Tạp chí Đất nước số 2, tháng 12 năm 1967. (xin ghi tóm tắt và sơ lược. Độc giả cẩn trọng, có thể tìm bản chính, vì nó cũng không dễ đọc)

Có thể nói nó như một tuyên ngôn văn học của tác giả và những người bạn đồng hành.

Thường ý tưởng sáng tạo trong nghệ thuật là một thái độ khẳng định nói không với dĩ vãng. Nghĩa là nói không với cái đi trước, nói không với những tác phẩm đã có và nói không với cả chính mình. Nói không để chứng tỏ là mình mới để chứng tỏ ta đây đổi mới.

Nhưng đôi khi đó chỉ là thái độ tự lừa dối chính mình, chưa chắc đã sáng tạo được gì. Chẳng hạn khi TLVĐ thành lập đã khước từ cái cũ, chủ trương cái mới. Nhưng cái mới là cái gì? Hình như nó chưa định hình?

Đến thập niên 1960, Khước từ cái cũ trở nên ồn ào, rộn ràng hơn lại phủ nhận văn nghệ tiền chiến. Những tiếng không dõng dạc, những đứng dậy, những chối bỏ, xét lại là những cựa mình ghê gớm chẳng khác gì dã thú ngủ suốt mùa đông thức dậy.( Đây là trường hợp của Sáng Tạo với Mai Thảo, theo vết chân TLVĐ phủ nhận Tiền chiến, lại đi theo vết xe đổ của TLVĐ. NVL)

Nhưng thật ra văn nghệ là sự làm lại liên tục đó. Cái cũ cái mới đan xen nhau. Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân , Khái Hưng, Nhất Linh vẫn là gia tài để lại êm dịu lắm. Nó cũng đem lại những cảm hứng sảng khoái khi gõ cửa những tùy bút của Mai Thảo, bùng cháy với tình yêu của Chu Tử hay khu vườn tuổi nhỏ của Duyên Anh.

Nghĩa là nó có chỗ đứng của nó, xác định từng thời kỳ không thể chối bỏ.

Nhưng ngày hôm nay, bắt buộc vẫn phải cựa mình, rời bỏ cái động ấm áp ấy đi tới một cuộc phiêu lưu mới. Vẫn phải nói không với dĩ vãng, không thể chấp nhận nơi trú ẩn an toàn đó. Và phải nhìn nhận ngay trong cái mới của ta đã có mầm mống của cái sáng tạo ra rồi trong một hình thức mới.

Theo Nguyên Sa, khi tờ tập san Đất Nước số một ra đời, chúng tôi cũng đã ngồi lại với nhau bẻ gẫy nó trước khi chấp nhận nó. Và chúng ta cùng nhau tìm kiếm ra những giải đáp cho những thắc mắc lớn nhỏ đặt ra cho thời đại chúng ta. Chúng tôi cũng có những tâm trạng hoài nghi, hân hoan cũng như thống khổ.

Và phóng ra những cái nhìn bốn phía, những tiếp xúc tứ phía, ý thức về những tương quan chính trị và không thể nào đi vào chủ nghĩa “sô vanh” (ý nói chủ nghĩa độc tôn, một mình, một chiếu văn học. NVL)

Trong cái hoàn cảnh chính trị vệ tinh chia cực mà chúng tôi chỉ là chầu rìa này, như hoàn cảnh viện trợ, hoàn cảnh phân chia này để tìm một lối thoát.

Chúng tôi có một dân tộc và chúng tôi yêu lắm chứ. Biết cầm bút, chúng tôi biết nỗi nhục, biết mơ ước dân tộc đang ước mơ, biết hãnh diện về một niềm kiêu hãnh chưa đạt tới.

Rời bỏ nền văn chương trú ẩn, khuôn thước, rời bỏ động đá vững vàng. Hay khởi đi về trước mặt. Đi đâu? Chưa biết.

Đó là một cuộc phiêu lưu. Có thể là một khám phá, có thể là sự gục ngã trong dại khờ còn hơn trong khôn ngoan. Chết ở chân trời thử thách, chết trong cuộc phiêu lưu còn hơn sống mãi trong tầm gửi trong động đá trú ẩn êm ấm.

Nguyên Sa

  • Trong cái tinh thần ấy ra đời những bài như : Lời cầu siêu thoát cho Nguyên Quang Đại ở Khe Sanh. Nguyên Sa. Đất Nước số 5. Tháng 6-7- 1968.

Tiếp theo là : Cắt tóc ăn thề

Cắt cho ta, hãy cắt cho ta

Cắt cho ta sợi dài,

Cắt cho ta sợi ngắn

Cắt cái sợi an gian

Cắt cái sợi nói dối

Sợi ăn cắp trên đầu

Sợi vu oan dưới gáy

Sợi bè phái đâm ngang

Sợi ghen tuông đứng dọc

Sợi xích chiến xa, sợi dây thòng lọng

Sợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt.

Sợi nấp trong hầm

Sợi ngồi trong hố

Sợi đau sót như giây dù chẳng mở

Sợi treo cổ tình yêu, sợi trói tay hy vọng

(…) Hãy cắt cho anh,

Hãy cắt cho em

Hãy cắt cho vợ

Hãy cắt cho chồng

Hãy cắt cho con (…)

Cho cả những thằng sa đích văn nghệ rẻ tiền

Cho cả những thằng xẻo thịt non sông

Cho cả những thằng băm vằm tổ quốc

Hãy cắt tóc

Hãy cắt tóc và nhìn

Mặt quê hương đổi mới.

Nguyên Sa. Tạp chí Đất Nước. Tháng 9-10- 1968

Lối làm thơ bây giờ có khác.

Không phải thơ phá thể, không phải lục bát «Nguyên Sa», cũng chẳng phải thơ tự do. Không một giọt tình. Sự lặp đi lặp lại mà không nhàm chán mà như một thúc bách, đòi hỏi. Ngôn từ như lệnh truyền. Sự chuyển tải nội dung thơ có phần sống sượng, đốp chát. Nhưng nó đáp ứng được những khát vọng thời đại của giới thanh niên trước thời cuộc.

Cái hay quyến rũ của thơ có thể để dành một bên để nói lên được cái khát vọng chua chát, cái mất mát hao hụt tuổi trẻ, mà cái sống và cái chết gần kề mà sống đôi khi chưa kịp ra lời…

Hiểu được tâm tư ấy, liệu chăng mới chia xẻ được bài thơ : Giã từ đàn anh của tác giả

  • Xin mở đầu bài viết với bài: “Giã từ khóa đàn anh ». Bài này sau đó được đăng lại ở Hải ngoại kèm theo chú thích về nguồn gốc bài thơ. (Cũng đăng lại trên tờ Đất NướC số 7, chỉ đăng bài thơ mà thôi. Đất Nước có tất cả các bài thơ của Nguyên Sa trong thời chiến. NVL).

Cũng theo tác giả, trong thời gian thụ huấn ở quân trường Thủ Đức, Khóa động viên 24, vị chỉ huy trưởng biết ông là nhà thơ, giáo sư Triết nổi tiếng nên đã nhờ sĩ quan Tâm lý chiến tiếp xúc với ông, yêu cầu ông viết một bài để đăng trong báo của Quân trường.

Tôi thấy cần thiết phải viết tóm tắt lại giai thoại văn chương lý thú này, vì nó quá đẹp đối với lời yêu cầu của vị sĩ quan với sự trân trọng thi sĩ.

« Sĩ quan chỉ huy chiến tranh tâm lý của trường võ bị Thủ Đức cho giấy mời tôi lên. Người sĩ quan có cấp bậc hàng tá xua tay ngay khi khi tôi vừa khởi đầu chào kính, chưa kịp đọc tên họ và số quân tám số, xua tay nói thôi thôi, anh đứng dậy rời bàn làm việc tiến ra phía tôi, xiết chặt tay nói anh em cả mà, anh mời tôi ngồi xuống ghế xa lông, hỏi han về sự thích ứng của tôi với quân trường, hỏi thăm việc quản trị trường Văn học thời gian tôi đi xa này (…) Anh đưa tặng tôi tạp chí nội san của trường Võ Bị Thủ Đức. Sau chót anh nói lên điều anh muốn.

  • Chúng tôi muốn xin anh Nguyên Sa một bài thơ.
  • Cho tờ tập san của trường?
  • Vâng cho tập san của trường…

Anh thận trọng nhấn mạnh đây là chúng tôi xin thi sĩ, không phải một mệnh lệnh, xin anh thông cảm cho…

Tôi nhận lời. Tôi vẫn được đối xử như một thi sĩ, một thầy giáo dạy Triết trong trường học rất võ mà rất văn này, nơi tôi đã trở thành một người học trò đầy hào hứng tìm lại được bản chất học trò tưởng đánh mất đến ngàn năm. Không có miếng đỉnh chung gì cả. Nhưng quý hơn ngàn lần miếng đỉnh chung, những lời nói chân thành đầy tình tự anh em bằng hữu, văn nghệ, giang hồ…

Tôi nhận lời. Trần Sơn Hà và Nguyễn Đức Năng thu xếp cho tôi lên nằm bệnh xá một ngày. Bác sĩ Bao (Tên đầy đủ là Trần Văn Lâm Bao. NVL), trưởng khu bệnh xá của quân trường thân ái nói anh cứ lên đây. Chưa đầy một ngày tôi đã có bài thơ cho tờ tập san của trường. (…). Tôi không trở lại bệnh xá của người bác sĩ quân y rất văn nghệ này lần nào.

Tôi có bài thơ cho tờ tập san của trường rồi “Giã Từ Khóa Đàn Anh” là bài đầu tiên tôi làm trong cuộc đời đổi khác, thời gian trước khi gắn alpha, thời gian từ một tháng rưỡi đến hai tháng sau khi nhập ngũ.

Giã từ Khóa Đàn Anh

Các ngươi là đàn anh của ta

Các ngươi đúng là đàn anh của ta,

Đàn anh tác xạ

Đàn anh vũ khí mìn

Đàn anh cơ bản thao diễn.

Hãy quỳ xuống

Và hãy đứng dậy

Hãy quỳ xuống trong đêm quân trường

Hãy đứng dậy trong ngày từ giã

Hãy đứng dậy khi nghe ta gọi

Các ngươi là đàn anh của ta.

Các ngươi là đàn anh của ta

Đàn anh địa hình

Đàn anh chiến thuật

Đàn anh gác ngày

Đàn anh kích đêm

Đàn anh cười

Đàn anh khóc

Đàn anh nhớ vợ nhớ con

Đàn anh khóc trên đồng ruộng quê hương

Đàn anh buông tay mẹ già tóc trắng

Đàn anh

Các ngươi

Hãy đứng lên

Hãy nhìn về trước mặt

Hãy đằng sau quay Hãy bước đi

Và hãy nghe ta Trong bước đi

Gọi thầm Hỡi đồng hành

Đồng hành

Trong cõi chết.

Bài thơ được in ra, tập san của trường phổ biến đến các đại đội khóa sinh. Hà nói tôi không hiểu tại sao các ông ấy lại đăng bài thơ này của cụ. Kim nói không bị củ là may rồi. Không tôi không bị « củ ». Cũng không bị khiển trách gì.(…)

Tôi muốn mô tả, tôi muốn chia xẻ.. (… ) Tôi muốn giãi bày những cảm nghĩ, xúc động trong cõi sâu, những khía cạnh nhân bản và nhiều khi bi thảm mà những ngăn cách khóa đàn anh, khóa đàn em không xóa bỏ đi được.

Nhưng bài thơ có thể mang lại ngộ nhận..(…)

Gọi các bạn khóa đồng ngũ khóa đàn anh là « Ngươi » xưng « Ta » có thể là những ngộ nhận khác.

Vị sĩ quan phụ trách tâm lý chiến ở Thủ Đức đã đăng Giã Từ coi như chọn lựa bất trắc. Tôi nghĩ tôi có nợ anh. Tôi nghĩ nếu như tôi gặp lại, tôi phải nói với anh lời cám ơn.

Sơ lược về lai lịch của Nguyên Sa thời du học bên Pháp

Xin mở một dấu ngoặc cuộc vào đời Nguyên Sa- như chuẩn bị cho một hành trình thi ca lừng lẫy và một trí thức tranh đấu dấn thân của ông cho những nghịch cảnh sau này. Một sự chuẩn bị báo trước một thiên tài, một người đấu tranh cho lẽ phải, cho quê hương đã bị cày rách nát vì bom đạn.

Đây cũng là một giai đoạn ít người lưu tâm tới.

Chúng tôi xin ghi lại bài nói chuyện của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch về nhà thơ Nguyên sa do nhà thơ, nhà báo Nguyễn Mạnh Trinh ghi lại (1949-1921) như một lời tri ân kỷ niệm NMT.

  • Nguyễn Mạnh Trinh. Thưa thầy, chắc thầy có nhiều kỷ niệm với nhà thơ Nguyên Sa từ lúc du học ở bên Pháp ?

Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, lúc đó đang học ở Sorbonne cùng với gs. Bùi Xuân Bào. Ông nói : Nguyên Sa với tôi có sự cách biệt về tuổi tác, hơn nhau đến tám chín tuổi nên ở bên Pháp cũng không có tiếp xúc gì nhiều. Tôi biết lúc đó có một nhóm anh em trẻ đang học những năm cuối cùng của bậc trung học ở thành phố Provins, gần thủ đô Ba Lê. Theo tôi biết, họ là một nhóm gồm Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn, Trịnh Viết Thành, Đỗ Long Vân. Tôi cũng nghe là nhóm trẻ ấy rất ham mê văn nghệ, trong hoạt động của họ có nỗ lực tìm tòi những điều mới lạ cho nghệ thuật nên tôi có cảm tình với các anh em trẻ đó.

(Tên Nguyên Sa có nghĩa chỉ là như hạt cát. Hoàng Anh Tuấn, nhà thơ, học về điện ảnh, sau làm Quản đốc đài phát thanh Đà Lạt. Trịnh Viết Thành, con trai lớn của chủ nhà in Nam Sơn, có thời là em rể của Nguyên Sa, nhưng chết sớm, sau đến Trịnh Viết Đức, em Trịnh Viết Thành đảm nhiệm việc in ấn thay anh in Hành Trình, Đất Nước. Đỗ Long Vân xuất sắc với bài viết : Vô Kỵ giữa chúng ta và vài bài nhận xét về thơ Thanh Tâm Tuyền như « Khuôn Mặt hay là tâm sự tiểu tư sản trong Thanh Tâm Tuyền– Rất tiếc, tác giả Đỗ Long Vân- nhân tài cũng mất sớm » NVL).( ….)

  • Nguyễn Mạnh Trinh. Thầy có nghĩ rằng những người làm văn chương từ Pháp về đã mang theo những khí hậu mới mẻ cho văn học lúc ấy ? Những tác giả như Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn, Trịnh Viết Thành, Cung Trầm Tưởng, Đỗ Long Vân đã mang về nước nhà những ảnh hình thời thượng, lãng mạn như ga Lyon đèn vàng, như dòng sông Seine thao thiết, như khuôn viên sang cả và đặc biệt những đại học ở Paris .. Và đối với giới trẻ lúc ấy, chịu ảnh hưởng rất nặng những mơ mộng ước mơ bắt đầu từ những điều kể trên ?
  • Nguyễn Khắc Hoạch. Tôi nghĩ dù sao những hình ảnh ấy chỉ là ước lệ mà thôi, còn cái thực chất mà mình tiếp thu được ở nước ngoài một cách sâu sắc là thái độ tinh thần, là kiến thức mới mẻ áp dụng vào đời sống Việt Nam. Như tôi đã nói, do sự khác biệt giữa hai nền văn hóa, những điều mình đã học hỏi có tác động tinh thần ngược lại để mình hiểu chính mình một cách thấu đáo triệt để hơn. (…)
  • NMT. Theo thầy, ảnh hưởng thơ Nguyên Sa ra sao, đặc biệt trong giới thanh niên trí thức ?
  • NKH. Chưa nói đến phần thi ca của Nguyên Sa, giới sinh viên lúc ấy rất tán thưởng các giáo sư giảng dạy về triết học trong đó tôi có thể kể đến các anh Nguyễn Văn Trung, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nguyên Sa… là những người đã mang triết học Tây phương vào giới làm văn hóa Việt Nam. Họ thổi một luồng gió mới vào nếp suy nghĩ của sinh viên. Mỗi người mỗi vẻ, những đóng góp đã làm thành yếu tố để gây dựng một nền học thuật vững vàng và nhiều chất bác học. Đặc biệt, chúng ta phải coi họ là những người đã « nhập cảng » tư tưởng triết học Tây Phương vào văn học Việt Nam. Đó là một đóng góp rất lớn. Riêng Nguyên Sa, với ngôn ngữ sáng sủa, lãng mạn, ý tưởng tân kỳ, tình yêu trẻ trung, làm thơ anh có sức hấp dẫn đặc biệt.
  • NMT. Như vậy triết học có ảnh hưởng gì đến thơ Nguyên Sa ?
  • NKH. Đây là một nét độc đáo của anh. Nguyên Sa là một giáo sư triết học, quen lý luận, nhưng có thể nói anh không hề bị triết học gò bó. Anh không hề bị coi như một « con tin » của triết học. Thi ca của anh thoải mái, phóng khoáng và ta cũng hiểu triết học đây, nếu có, chính là phong thái sống và nếp cảm nghĩ của tác giả và chỉ thế thôi.

Nguyên Sa có lẽ không bao giờ nói đến triết học trong thơ của anh, nhưng triết học lại luôn luôn hiện diện với các hình thái «đời sống con người» và rất tự nhiên như hơi thở của chúng ta vậy.

Đó là điểm đáng khen của Nguyên Sa, theo tôi. (Xin tạm ngừng bài phỏng vấn ở đây).

Phạm Việt Tuyền. Đọc ‘Những năm sáu mươi’ của Nguyên Sa trong sự phân tích về khuôn phép, vẫn làm thơ như thể một người ngoài cuộc.

Có thể chia cuộc đời làm văn học tóm lược trong hai giai đoạn : Giai đọan làm thơ tình và giai đọan làm dấn thân, đấu tranh. Giai đoạn thơ tình thời trẻ đã đem lại cho ông rất nhiều hương vị ngọt bùi và lòng say mê cảm mến của nhiều giới trẻ.

Giai đoạn với tập thơ Những năm sáu mươi, mang màu sắc chính trị không nhận được sự đón tiếp nồng hậu của giới trẻ nữa. Đã hết rồi. Vì thế, xin giới thiệu nhà báo Phạm Việt Tuyền có những nhận xét về tập thơ này.

Theo ông Phạm Việt Tuyền, trong một phiên họp nhằm tục bản tập san Nghiên cứu Văn học, anh em chọn chủ đề : Văn Nghệ Đen cho số tái ngộ này. Và tập thơ Những năm 60 của Nguyên Sa được coi như một tập thơ đen theo mọi nghĩa. Đen theo nghĩa nhà Trình Bày đưa tập thơ lên Bộ Thông Tin, yêu cầu kiểm duyệt từ tháng 5-1970. Nhưng cho mãi đến tháng giêng năm 1971 cũng chưa được kiểm duyệt.

Cuối cùng theo lời đề nghị của tác giả nên đã in ra 200 bản để đề tặng anh em cùng nhau đọc chơi.

Tập thơ này gồm 29 bài thơ đại loại như : Săn Bắn, Nhìn em, nhìn thành phố nhìn quê hương, Tắm, Đám tang Nguyễn Duy Diễn, Cắt tóc ăn tết, Dặn vợ sắp cưới, Bao giờ, Xin lỗi về những lầm lỗi dĩ vãng, Vết sẹo, Nhìn thấy mình trong quân trường nhắn bạn, Cầu siêu cho Nguyễn Quang Đại chết ở Khe Sanh, Thằng Sỹ chết, Chào nhau, Tám phố Sài gòn, Hỏi bạn, Building, Định mệnh chân dài, Lời năn nỉ, Hỏi thăm Saigon, Giã từ khóa đàn anh, Chim, Vẽ, Nguyền rủa ngày, Ném Đá, Hỏa Châu và Huyền thoại, Chỗ nằm của ta, Lời dặn bản thân, Tóc và Điểm danh.

Theo Phạm Việt Tuyền, đó là 29 sợi suy tư, 29 miếng cảm xúc, 29 trường hợp viết của Nguyên Sa.

Bài Sân bắn mở màn với bài Điểm Danh kết thúc, nhà thơ Nguyên Sa đã vẽ ra một hình ảnh của một tên lính ngơ ngác và lạc lõng của những người lính bất đắc dĩ phải cầm súng.

« Bia lên ta thấy thân người

Thấy ta thấy địch thấy đời lãng du

Thấy tay dư, thấy chân thừa

Thấy tai nghễnh ngãng mắt mù óc không »

Bài Điểm Danh có vẻ lạc lõng

« Đứng dậy nghe gọi điểm danh

Chiêm bao mở mắt thân hình mộng du.. »

Theo tác giả Phạm Việt Tuyền, bài Điểm Danh nghe gượng ép, cảm xúc nghèo nàn, lời lẽ nhạt nhẽo.

Chưa kể, có những bài thơ làm theo Thể lục bát với nhiều phen lạc vận.

Bài Cắt tóc ăn tết với kỹ thuật trùng điệp, lập đi lập lại có thể đến nhàm chán.

Nói chung, phải nhìn nhận những nhận xét của Phạm Việt Tuyền có cái lý của nó. Cái đúng trong một hoàn cảnh bình thường mà có thể không đúng trong thời chiến tranh, có bom đạn, có chết chóc chia lìa.

(Trích dẫn Phạm Việt Tuyền Sài gòn đêm 25- 2- 1971, trên Tạp chí Văn Học, số 1 tháng 3/1971)

Thật không dễ dàng gì với thơ đấu tranh. Phải chăng đó là những lỗ lưới thủng trong thơ Nguyên Sa ? và cũng phải chăng may ra chỉ có thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đạt mức trần của loại thơ đấu tranh. Kiệm lời và gọn ý, biểu tượng, tạo ra được một ấn tượng sâu sắc khó ai đạt được ?

Và để bù lại những thiếu sót này, Nguyên Sa trong ban Biên Tập tờ Đất Nước đảm nhiệm một mục Thế… đó trong suốt dọc dài nhiều số báo bên cạnh những cây bút chủ lực như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan với những bài về đường lối, chính sách, về lập trường chính trị.

Hay nói như Pascal trong sự đối đầu, người Quốc Gia và người cộng sản ở vào một thời điểm nào đó đã cùng xuống thuyền mà vận mệnh dân tộc đã đẩy họ xuống. Vấn đề là ngày hôm nay, chúng ta phải làm gì ? Và đã làm gi ?

Họ là đủ mọi lớp người như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Thảo Trường, Diễm Châu, Thế Nguyên, Hương Khê, Trương Cẩm Xuyên, Đỗ Phùng Khoan, Trần Văn Toàn, Đỗ Hồng Ngự, Nguyễn Khắc Ngữ, Thế Uyên, Nguyễn Đông Ngạc, Nguyễn Trọng Văn. Họ là Nguyễn Ngọc Lan, Trương Đình Hòe, Trương Bá Cần. Họ là Đỗ Long Vân. Họ là Nguyên Sa

Họ là linh mục, họ là lính, họ là nhà văn, họ là giáo sư, họ là nhà thơ. Họ là tất cả đều đã xuống thuyền và họ phải tự hỏi xem, họ phải làm gì ? Như Nguyên Sa phải làm gì ? Không lẽ cứ làm thơ ?

Nguyên Sa đã không có mặt trên tờ Hành Trình trong 10 số. Ông chỉ thực sự có mặt trên tờ Đất Nước. Chắc là có sự mời mọc của Nguyễn Văn Trung.

Tờ Đất Nước là một vùng « xôi đậu », lẫn lộn Quốc gia, cộng sản. Cộng sản thật cũng có, cảm tình cũng có. Thế Nguyên, Trương Bá Cần, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Tôn Thất Lập lộ diện rõ hơn.

Giữa Hành Trình và Đất Nước, cộng sản như thể đang ở ngoài nhà, nay đã vào đến trong nhà, vào đến tận buồng ngủ của tờ báo. Điều đó nó cũng chứng tỏ miền Nam đã mất nửa phần và trên đà suy sụp toàn diện.

Gần như số Đất Nước nào cũng có bài thơ của Nguyên Sa ở trang đầu như một trang trọng. Sau đó có mục Thế… Đó, đánh đông, dẹp Bắc. Bằng nhũng trích dẫn báo chí ngoại quốc. Tỉ dụ, ông trích dẫn lời ký giả Charles Favrel, đặc phái viên của báo Le Monde đã viết : «Rất nhiều phi công Mỹ chỉ thấy trong công tác chiến tranh của họ như một hoạt động thể thao và họ nói. Hôm nay chúng tôi « mần ăn » khá, và thực sự chỉ yêu cầu họ mần ăn khá như thế mà thôi. » (Trich dẫn Charles Favrel, báo Le Monde, ngày 30-1-1951)

Biểu họ « khéo léo » thì còn được, nhưng biểu họ « thương xót » thì thương xót ai, thương xót cái gì ? Một người phi công Mỹ, nếu sống trong một căn cứ tại Việt Nam, lâu lâu còn trông thấy một người Việt Nam, dầu cho đó chỉ là một anh bồi, một tên ma cạo, một con đĩ. Nhưng sống trên Hàng Không mẫu hạm hoặc một căn cứ ngoại quốc thì nước Việt Nam, người Việt Nam đối với họ là cái gì ?

Nguyên Sa cũng trích dẫn báo Chính Luận có đăng bản dịch của báo Time trong đó có lời tuyên bố của Eddie Rickenberker «anh hùng không quân dân tộc Hoa Kỳ ». Vị anh hùng không quân này đã nói « Hoa Kỳ phải ném bom xuống những hải cảng, đập nước và dân chúng Bắc Việt. Chúng ta không chiến đấu với những con người ở đó, chúng ta đang đánh nhau với những con vật có hai chân. Dân chúng ở đó chỉ là những kẻ nô lệ. (Chính Luận ngày 8-11- 1967).

Câu chuyện Nguyên Sa còn kể rất nhiều những giai thoại như thế trong mỗi số báo như tố cáo cái dơ bẩn, tồi tệ của chiến tranh với cái mặt trái của nó. (Trích Đất Nước số 12- 1967, Nguyên Sa, mục Thế.. đó trang 147).

Sau tờ Đất Nước đến tờ Trình Bày, vai trò của Nguyên Sa không còn mấy quan trọng nữa, bởi vì đây là tờ báo cộng sản thứ thiệt do cộng sản giật giây. Thế Nguyên (1942- 1989.- tên Trần Gia Thoại, sau 1975, cộng sản không dùng, bị bỏ rơi, chết lãng xẹt vì bị bệnh sài uốn ván. Ông là con một nhà giàu, lấy một người vợ lai Tầu. Chị vợ đã móc nối với em rể đưa vào MTGPMN, thập niên 1960. Tiền tài trợ một nhà in có thể do Việt cộng cung cấp để Thế Nguyên có thể ấn hành sách báo..

Nay chỗ của ông không còn nữa.

Nguyên Sa, nhà thơ, nhà báo ở Hải ngoại

Tôi xin mạn phép không viết về Nguyên Sa trong thời kỳ ở Hải ngoại, vì như ngôi sao văn học nơi ông đã tắt. Viết ở đâu. Viết lúc nào, tại sao viết đã trở thành dòng sông nghẽn mạch của chính sự nghiệp của ông. Vấn đề cơm áo gạo tiền ở xứ người, hoàn cảnh sống thay đổi hầu như không có chỗ đất đứng, nhiều nhà văn cũng đã cạn nguồn sáng tác.

Đây là dấu kết thúc chẳng những Nguyên Sa, nhà thơ và còn là nhà báo văn học đúng nghĩa. Xin giã từ Nguyên Sa trong niềm nuối tiếc một thời đã qua của miền Nam một thời.

Nguyên Sa và tình bạn

Cái dấu ấn để lại nơi tôi và nhiều người- nhất là Nguyễn Văn Trung -bạn ông- là cái tính bình dị, xuề xòa, « lè phè » theo ngôn ngữ của học trò ông, dễ quý mến ở nơi ông. Nội cách ăn mặc, áo bốn túi, bỏ ra ngoài, cái mũ phở, đi đôi dép nó như thể hiện nơi ông một nghệ sĩ hơn là một ông giáo nghiêm nghị.

Ông xuề xòa, nhếch nhác với bạn bè, nhưng lại nghiêm khắc với chính mình. Vợ con là trên hết. Giờ cơm là bỏ bạn bè thói la cà như Mai Thảo. Mai Thảo thường thích la cà ở phòng trà Văn Cảnh.

Mặc dầu giữa Mai Thảo và Nguyên Sa khác biệt nhau nhiều chẳng những dưới góc cạnh văn học như quan điểm của Sáng Tạo là loại trừ Tiền chiến. Nhưng trong quan hệ bạn bè, Trần Bích Lan, Nguyên Sa vẫn là những bạn bè. Nguyên Sa vẫn dùng chiếc xe hơi con cóc của mình chở Mai Thảo chỗ này chỗ kia. Tôi thật ngạc nhiên khi biết Nguyên Sa từng đón Mai Thảo đến chỗ trọ của của nữ sĩ Cẩm Nhung, chờ Cẩm Nhung thay quần áo đến quán nhảy. Và một lần, khi Cẩm Nhung bị bà Trung tá Thức, vợ một sĩ quan ghen tuông một cách vô lý, tạt át xít, rồi phải ngồi ăn xin ở lề đường.

Nguyên Sa lại một lần nữa chở Mai Thảo đến đó. Mai Thảo lặng lẽ bỏ một gói tiền vào nón của Cẩm Nhung. Cẩm Nhung qua đôi mắt mù lòa vẫn cảm nhận được người đó là ai.

Thật cảm động giữa nỗi thống khổ của một mối tình bất hạnh và lặng câm, nhưng vẫn đậm đà tình người và tình bạn sâu xa giữa hai nhà văn. Thật không dễ cho bất cứ ai làm được điều đó. Không dễ tí nào.

Trong chỗ riêng tư, Nguyên Sa đối với đàn em đồng nghiệp như bạn bè, chia xẻ và chỉ bảo. Cũng không dễ tí nào trên thực tế.

Và sau đây, xin nhường lời cho Nguyễn Văn Trung trong Nhận Định X : Nguyên Sa một người bạn.

« Nguyên Sa vừa nằm xuống, từ giã vĩnh viễn bạn bè trong nước, ngoài nước. Chúng tôi là bạn khi về nước cùng dạy Triết ở trung Học, Đại học. Tôi viết bài cho những tạp chí do Nguyên Sa phụ trách như Hiện Đại, Gió Mới. Nguyên Sa viết cho những tạp chí Đất Nước, Trình Bày.

Hoặc cả hai cùng cộng tác với Mai Thảo đặc biệt những số đầu của Tạp chí Sáng Tạo. Mai Thảo cũng vừa nằm xuống vài tháng trước Nguyên Sa. (…)

Nghĩ đến Nguyên Sa, kỷ niệm sâu đậm nhất, tiêu biểu phong cách của Nguyên Sa hơn cả là thái độ của Nguyên Sa đối với bạn hữu, tôi không dùng từ ngữ bạn bè cố ý nhấn mạnh vào tính cách không bè phái trong quan hệ giữa Nguyên Sa và các bạn văn, nhà giáo của anh… (..) Trong sinh hoạt viết sách báo, cố gắng tránh đề cao, xưng tụng lẫn nhau. Ngay cả dè dặt thận trọng giới thiệu tác phẩm của nhau. (…) Nguyên Sa không gây sự với ai. Nhưng nếu ai gây sự với anh, với những người anh coi là bạn và nếu anh thấy những người đó bày tỏ thái độ phê phán, đả kích với những ý đồ đen tối, bất chính, bằng một lối chụp mũ, vu khống, mạ lỵ hạ cấp, anh phản ứng.

(…) Tôi nói chuyện với đề tài : Luân Lý vă văn học. Tờ Văn Đàn lên tiếng tố cáo tôi chủ trương một văn học phi luân. Nguyên Sa lên tiếng trong «Hiện Đại» số 6 tháng 9/1960 ở trang bìa. Nguyên Sa làm như Francois Mauriac, một nhà văn nổi tiếng lúc đó thường bày tỏ quan điểm của mình ở trang cuối tuần báo Express ở Pháp. Nguyên Sa viết trong «Khuôn mặt thời gian» trang 6. : «Vào một buổi tối tháng 7 trời mưa. Nguyễn Văn Trung đã nói chuyện tại một câu lạc bộ. Tôi không tường thuật buổi nói chuyện ấy trên mặt bìa này. Cũng không phê bình. Tôi chỉ muốn nói đến ý nghĩ : Cuộc nói chuyện đã ném vào tôi một xúc động lớn. Nguyễn Văn Trung thuộc vào số người ít ỏi của thế giới này dám nói lên ý nghĩ chân thành của lương tâm, nói lên điều cần nói, điều phải nói. Nói lên dù biết chắc chắn sẽ gặp áp lực trở ngại, dù sẽ bị xuyên tạc, phỉ báng, lăng mạ, đâm vào lưng bởi một loại bò sát quen trốn tránh sự thật…

Gần 10 năm sau, xảy ra vụ khủng hoảng trường đại học Văn khoa Saigon trở thành một biến cố thời sự được phản ánh rộng rãi cả tháng trên các tạp chí, báo hàng ngày thời đó.. Tôi là bị cáo chính trong vụ này bắt nguồn từ ý định cải tổ một trường Đại Học bị nhiều mâu thuẫn chi phối : tiến bộ/bảo thủ, thân cộng/chống cộng, công giáo/ Phật giáo. Nam/Bắc và Khoa bảng/học giả.

Nguyên Sa được giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch mời dạy và ở trong ban Triết học do tôi làm trưởng ban. Khi tôi thay giáo sư Hoạch, dĩ nhiên tôi vẫn tín nhiệm Nguyên Sa..(…) Đơn giản chỉ thế thôi. (…) Nguyên Sa cũng bị tố cáo là không đủ bằng cấp để dạy đại học. Và Nguyên Sa đã lên tiếng… Anh gửi một thư từ chức cho Khoa Trưởng ĐHVK Sài gòn đăng trong báo Hòa Bình 2/12/1969 trong mục do Kiều Phong phụ trách…

( Bản thân, tôi còn giữ được bản đánh máy của Kiều Phong trên báo Hòa Bình đề ngày 2-12-1969 với nhan đề : Buồn vui với bạn đọc. Cuối trang có ghi chú Lời tòa soạn : 9/10 Gs Văn Khoa không có bằng tiến sĩ. Thí dụ Ông Bửu Cầm, nhà văn Vũ Khắc Khoan, thi sĩ Đông Hồ.

Đó là những dòng chữ để lại về tình bạn của Nguyên Sa. Xin ghi nhận lại như thế. Trích trong Tuyển tập Nguyên Sa ( 1956-1975. Rời bỏ nền Văn chương trú ẩn không tiện đăng hết)

Hành trình tới đạo Thiên Chúa giáo của Nguyên Sa từ một chứng từ trong bài viết : Kính mừng Maria

Bản thân người viết bài này có thể không mấy khó khăn khi viết về văn học, báo chí, triết lý của Nguyên Sa. Nhưng viết về tín ngưỡng tôn giáo- dù là thân thuộc- cũng thấy quả là không dễ.

Vì nó thuộc niềm tin của một người.

Và trong nhiều năm trời, kẻ viết bài này cũng không hề lưu tâm tới vấn đề này. Và tự thâm tâm thấy không là điều thiết yếu trong việc tìm hiểu. Nhưng nghĩ cho cùng, nghĩ tới cuộc đời tác giả thì phải chăng nó lại là điều căn thiết nhất ?

Trong bài viết của Nguyên Sa nhan đề : Kính mừng Maria, ông viết nửa như dỡn đùa, nghịch ngợm thời nhỏ đi học, thập niên 1940, ở Hà Nội. Nó cho ta có cảm tưởng như từ vô thức trở thành ý thức. Từ bên ngoài mà từ lúc nào đó thẩm nhập vào bên trong. Và từ những kinh nghiệm bản thân qua những chuỗi khó khăn của cuộc đời, nó trở thành niềm xác tín không hay. Tôi không giải lý và cũng không biết được điều gì của chính tác giả đi từ điểm A đến điểm B.

Chỉ xin ghi lại một mảnh trong kiếp phù sinh của tác giả. Và nhất là cả bà Nga, phu nhân của tác giả nay cũng trở thành tín đồ nhiệt thành.

Phải chăng đó là những kinh nghiệm siêu hình bắt chợt được trong cuộc hành trình dương thế ?

Câu hỏi như thế đã ngầm ý câu trả lời.

Hồi đó, ông học lớp nhì A, trường Việt với các Sư Huynh « Đờ Ni » ( Denis), ông này có một miếng vải trắng đeo trước ngực, bị gọi đùa là cái yếm. Sư huynh dùng thước kẻ để phạt. Ông bắt úp tay xuống đàng hoàng rồi mới khõ. Không thuộc bài, ba quả. Không thuộc giáo lý, năm quả. Đánh nhau, 10 quả. Ông còn kể lại : Bố ông xin cho ông vào trường Puginier vì « vì mày cứ đánh nhau suốt ngày, phải cho vào trường « phe » để các ông « phe » các ông ấy trị. »

Trước đó, ông học trường Việt, ông kể : Khi đồng minh bỏ bom, sư huynh dẫn các học sinh dắt nhau ra hầm trú ẩn. Bên đối diện là phe trường Tây. Thứ sáu nào, buổi trưa, « phe » cũng giữ Nguyên Sa lại, cũng kể « chuyện Thánh ». Mà nếu có mặt Duyên Anh sẽ kêu lên là « hay tuyệt cú mèo ». Như chuyện ông Môi-Xe dẫn đoàn lưu vong về đất hứa, ông làm ra mưa, ngăn đôi dòng sông chảy xiết. Chuyện bà thánh Ma đơ len bị ném đá. Chuyện Ba vua.. « Phe » nhắm mắt kinh khủng khi nói về Lu ci phe. Nhưng ông cười rạng rỡ khi kể các chiến thắng của các thiên thần..

Ông tâm sự về : Câu chuyện về Kinh Kính Mừng do “ phe” kể ghi những vết sâu đậm nét trong tâm hồn tôi. Đó là chuyện một anh chàng bê tha, hư hỏng, cờ bạc trai gái tội lỗi đầy đầu, mà toàn tội trọng, nhưng anh chàng tội lỗi này tối nào đi ngủ cũng đọc ba kinh Kính Mừng. Bạn của chàng này cũng hư hỏng không kém. Kinh Kính mừng không đọc bao giờ. Còn anh thứ nhất, sau những cuộc truy hoan trở về nhà, dù mệt mỏi đến đâu, anh cũng mắt nhắm, mắt mở đọc xong ba kinh Kính Mừng rồi mới đi ngủ. Cả hai bị nạn và ngắc ngoải. Anh tội lỗi không đọc kinh chết ngay ít phút sau đó, không kịp cha đến làm lễ giải tội cuối cùng. Anh đọc kinh Kính Mừng được ơn lành cửa Đức mẹ đồng trinh nên khi Cha đến giải tội anh còn sống. Anh lên thiên đường đương nhiên. Còn anh kia hỏa ngục đời đời. Sư huynh Denis ngồi với tôi trưa thứ sáu, khi các bạn đã về hết, ông cầm lấy tay tôi, ông đọc trước, tôi lập lại : « Kính mừng Maria đầy ơn… phước » ông đọc Đức Chúa Lời ở cùng bà… « Tôi đọc lại : « Đức Chúa Lời ở cùng Bà… »

Sau này, sư huynh Denis “xuất” năm 1945, rồi đi vào Nam trong đoàn quân Nam tiến để tổ chức “chống” Pháp. Khi về hưu, “phe” (frère) lúc đó đã già lắm, tóc rụng gần hết, gần như liệt, về sống ở Hạnh Thông Tây và qua đời tại đây. Trước đó, một anh bạn học cũ lớp Nhì A, trường Puginier Hà Nội vào năm 1960 thường quyên góp tiền bạn bè cũ để giúp đỡ “phe”. Tôi cũng đóng góp vui vẻ.

Ông nhớ lại, chính “phe” Denis dạy Trần Bích Lan (Nguyên Sa) kinh Kính mừng. Và khi biết tin “phe “ qua đời, Nguyên Sa đã tìm một góc tối đọc ba Kinh Kính mừng cầu xin Ơn trên cho “phe”.

Ông nhớ lại, khi chuyến bay C141 bắt đầu lăn khỏi phi đạo Tân Sơn Nhứt cách đây hơn 8 năm. (Tôi còn nhớ gặp Nguyên Sa một hai Tuần trước biến cố 1975. Sau đó lần sau đến trường Văn Học, trường vắng hoe. Người gác trường cho biết, ông Lan và gia đình đã rời VN rồi. NVL)

Tiếng động cơ vang động, những rứt bỏ đứt ruột, tôi cất tiếng “Kính Mừng Maria”. Khi chiếc phi cơ di tản đã ở trên trời cao, vợ tôi cầm tay tôi hỏi: “ Hồi nãy , anh đọc cái gì thế?”. Tôi trả lời: “ Anh đọc kinh” “ Kinh gì thế?” Kinh Kính Mừng.. Vợ tôi trợn tròn mắt kinh ngạc hỏi : Kinh đó anh học từ bao giờ. Tôi không trả lời những câu hỏi lặng câm. Tôi chậm rãi đọc: “Kính mừng Maria đầy ơn phước.. “ Đức Chúa Lời ở cùng Bà..” “ Đức Chúa Lời ở cùng Bà.” Vợ tôi nhắc lại, với ngạc nhiên, mỗi lúc lắng xuống ’ Kính mừng Maria đầy ơn phước..”

“ Đức Chúa Lời ở cùng Bà…” “ Đức Chúa Lời ở Cùng Bà..”

Khi tôi ngó xuống, đảo Guam đã hiện ra phía dưới. (Gia đình Nguyên Sa ghé qua đảo Guam, sau đó chọn lựa đến Pháp. Ông ở lại Pháp 3 năm, sau đó quyết định dọn về ở California cho đến cuối đời. NVL)

Câu chuyện Nguyên Sa chỉ là những cảm nghiệm riêng mà người Thiên Chúa giáo có thể dễ dàng chia xẻ. Sau đây, xin ghi lại ít dòng về cảm nghiệm tôn giáo của Nguyên Sa, trích trong cuốn sách của tác giả Nguyễn Đức Tuyên: Hành Trình Đức tin. Những trường hợp vô đạo Chúa. 2014.

Trong một bài thơ có tên Mật Khẩu mà nội dung có vẻ như Nhân cách hóa Thượng đế thường đến với ông bất chợt.

Ngày nào Thượng Đế cũng tới

Giờ khắc bất định

Nhưng ngày nào ông cũng tới ít nhất một lần

Ngày nào ông cũng mở banh lồng ngực tôi ra

Thản nhiên bước vào trong

Tôi không biết ông đi vào tim

Hay ông đi vào phổi…

Nhận xét: Cảm thức về Thượng đế như thế một con người quyền uy chợt đến, chợt đi… Đó là cảm nghiệm của riêng từng người. Mỗi người chia xẻ một cảm nghiệm con đường dẫn đưa tới Chúa. Tuy nhiên, từ lúc làm bài thơ này đến lúc ông quyết định chịu phép Thánh tẩy, thời gian kéo dài trong bao lâu?

Chỉ biết rằng, theo lời kể lại của linh mục Phạm Ngọc Hùng, cha xứ tại thánh đường Polycarp, Orange, California. Cha nhớ lại, vào buổi tối khuya, một thanh niên đến gõ cửa xin linh mục đi làm phép Thánh Tẩy cho một bệnh nhân muốn tin nhận đạo Chúa. Sau đó, vị linh mục được biết đó là con trai của Nguyên Sa, một bác sĩ.

Khi đến nơi, nhìn thấy họ hàng, bạn bè quây quần chung quanh. Linh mục đã nói với Nguyên Sa:

“Thưa bác, bác còn đang yếu, xin bác cứ ngồi trên ghế để con cử hành nghi thức Thánh Tẩy cho bác.”

Nhà thơ trả lời: Để tỏ sự kính trọng đối với một bí tích, xin cha cứ để con quỳ xuống, không sao.

Trong lễ nghi an táng nhà thơ Nguyên Sa, có linh mục Thomas Đỗ Thanh Hà và linh mục Vincent Phạm Ngọc Hùng cùng các quý cha, quý nam nữ tu sĩ , các Ban chấp hành cộng đoàn, các đoàn thể, các ca đoàn, các quý quan khách, quý vị văn nghệ sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Phải nói, cuộc đời thi sĩ Nguyên Sa là một đời sống trọn vẹn. Trọn vẹn với gia đình, với vợ con, với bạn bè trong suốt cuộc đời làm đẹp cho đời và tranh đấu dấn thân cho xã hội, cho đất nước.

Bài này như một tưởng nhớ của một thế hệ đàn em đối với ông, một thế hệ đàn anh mà sau này trở thành mẫu mực cho cả một đời và cho cả một thời.

Nguyên Sa của một đời và của một thời.

Nguyễn Văn Lục

Posted in Thân Hữu | Comments Off on Nguyễn Văn Lục- Nguyên Sa của một đời và của một thời- Nov 13, 2 021