Lưu Trọng Văn- 10 năm- Trò chuyện giữa Trần Văn Thọ- Trần Song H ải ( cha là Đại Tá VNCH, Hạm Trưởng HQ 10- Hải là người tổ chức cho các “chú của HQ 10 cũ” mỗi năm ở Đền Đức Thánh Trần, hiện gi ờ là TGĐ Tàu cao tốc Sài Gòn – June 16, 2022

Lưu Trọng Văn

10 NĂM…

Gã cùng gs Trần Văn Thọ và Trần Song Hải đụng chuyện, góc phố sau lưng Nhà hát Lớn SG.

Gs Thọ từ Nhật về VN để ra mắt cuốn sách mới nhất của ông viết về sự phát triển thần kì của Nhật. Xoay quanh chuyện vì sao có sự khác biệt của VN và Nhật. Lý do lõi là gì.

Trần Song Hải ông chủ của "hạm tàu" cao tốc xanh đang làm chủ các tuyến SG- Côn Đảo, SG- Vũng Tàu, Đà Nẵng- Lý Sơn… kể chuyện gia đình mình. Ba của Hải là

đại tá hải quân VNCH được đào tạo cơ bản bên Mỹ, từng chỉ huy chiến hạm Nhật Tảo-HQ 10 mà sau này Nguỵ Văn Thà chỉ huy và hy sinh ở Hoàng Sa ngày 19.1.1974.

Sau sự cố 30.4.1975 ba của Hải vì muốn ở lại VN với hy vọng chuyên môn sâu của mình về hải quân và tàu chiến, ông sẽ đóng góp cho đất nước bảo vệ Biển Đông, nên đã không di tản. Ông cũng như nhiều sĩ quan VNCH bị bắt đi cải tại tập trung.

Một hôm ông được đưa khỏi trại, dẫn về SG. Ông được đưa lên nhiều tàu hải quân của VNCH để giảng dạy cho các sĩ quan hải quân VNDCCH về cách điều hành, sử dụng các tính năng của các loại tàu của Mỹ này.

Gs Thọ thích thú lắng nghe câu chuyện của Hải. Ông luôn dướn cặp kính dầy lên không rời mắt nhìn Hải chỉ sợ câu chuyện sớm chấm dứt.

Nhưng câu chuyện chấm dứt thật. Cụt ngủn. Gs Thọ hỏi, sau đó thì sao, ba của cậu có được trả tự do để làm cố vấn cho hải quân không?

Hải bẽn lẽn cười.

Dạ không. Ba em sau đó lại bị đưa vào trại ạ.

Chắc ông được ra sớm chứ?

Dạ không, 10 năm sau mới được ra ạ.

Gs Thọ im lặng hồi lâu rồi tháo cặp kính lấy khăn lau cặp kính.

Gã buông câu: Sự khác nhau chính ở chỗ này đây.

Các comment

LanChi Hoang :

Trần Song Hải ơi:

Mười năm mặt sạm soi khe nước

Ta hóa thân thành vượn cổ sơ

(Tô Thùy Yên)

Khi ba về, con có nhận ra ba

Hay mặt sạm đã làm cha thành vượn

Nhưng hề chi người trai thuở ấy

Mắt sáng ngời, con vẫn nhận ra cha?

Người hạm trưởng của một thời binh lửa. Đã có con nối dõi bước hải hành. Ta nghe nói hàng năm nơi Thánh Tổ. Con vẫn cùng đồng đội của cha. Họp mặt nhau ôn ngày tháng cũ. Con vẫn chu toàn cho các chú. Thật đẹp thay, giòng giõi Hải Quân

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này

(Tô Thùy Yên)

Con hãy thay cha rưới rượu hồng. Cho cuộc biển dâu nhiều oan khuất. Giải oan từ giây phút này đây!

Cô, một người yêu "Tình Ca" của PD nhất.

… Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…Lý Lê Trần và còn ai nữa. Những anh hùng của thời xa xưa. Những anh hùng của một ngày mai…

Author

LanChi Hoang

Lưu Trọng Văn là con trai "công thần" Lưu Trọng Lư nên LTV sẽ có những bài viêt XYZ và những bài này cũng đã gặp nhiều comment chỉ trích, mỉa mai. Cá nhân tôi cũng góp phần khi "không thích một stts nào đó của LTV"

Còn topic này: LTV chỉ muốn giới thiệu Trần Song Hải, con trai Hạm Trưởng HQ 10 của Hải Quân VNCH. Tháng 4 1975, ông ấy không đi vì nghĩ là 1,2,3,4 và cái giá của sự suy nghĩ đó là 10 năm mặt sạm soi khe nước -Ta hóa thân thành vượn cổ sơ"! Tương tự, cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông cũng thế. Ông không đi dù chức vụ/chức vị ấy muốn đi không khó vì vướng cha mẹ già nhưng cũng vì người nhạc sĩ ấy ( miền Nam, rất yêu quê hương, ruộng đồng, chịu ảnh hưởng Nho Giáo nên viết nhạc theo kiểu bi hùng như Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Mấy dặm sơn khê..) cũng nghĩ hao hao. Rằng tôi quê hương hết chiến tranh, đồng bào không phải chết là tốt. Cái giá Nguyễn Văn Đông phải trả là hơn 10 năm tù. VC chỉ thả khi ông đau nặng và VC cho về …để chết. Nhưng chị Thu đã tận tụy và đã đưa người về từ cõi chết. Rồi sau đó, Nguyễn Văn Đông sống lặng câm. Không hề cộng tác gì với nhà cầm quyền vc. Cứ mỗi năm gần 30/4 là tự động Nguyễn Văn Đông lăn đùng… ra ốm. Chẳng qua chỉ để tránh né lời mời/hăm dọa xa gần từ Mặt Trận Tổ Quốc! Nguyễn Văn Đông không "hèn", không "khốn nạn", không "bỉ ổi" như tên Trịnh Công Sơn ( TCS làm gì? tài liệu đầy ở net. Đám dư luận viên vc hay đám thích nhạc TCS đừng có mà vào đây cho comment láo lếu nhé) là viết nhạc đỏ. Cho dù bạn của Nguyễn Văn Đông là Trần Văn Khê, là Phạm Duy nhưng Nguyễn Văn Đông không hề cộng tác tí gì với nhà cầm quyền cs cả. Đổi lại, ông cũng né tránh hải ngoại. Tất cả chỉ để gia đình nhỏ được yên ổn sinh sống ( tiệm bánh mì giò chả Nhiên Hương) và để ông sông nốt chuỗi ngày còn lại. Người duy nhất được Nguyễn Văn Đông kể cho nghe nhiều chuyện, được phép thu âm ông, chỉ có một mình Hoàng Lan Chi!

Trở lại, topic này Lưu Trọng Văn không hề viêt kiểu bao che, biện hộ khéo léo cho một sự việc nào đó mà đã cho thấy "một người lính VNCH" đã suy nghĩ gì để rồi:

Ta về cúi mái đầu sương điểm

Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

Cảm ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui từ nỗi lẻ loi

(Tô Thùy Yên)

Người lính đã dạy dỗ con những gì mà sau này Trần Song Hải vẫn hàng năm mời các chú HQ 10 đến và tưởng nhớ "Trường Sa- Hoàng Sa". Cũng chính Trần Song Hải làm bia với tên Trường Sa-Hoàng Sa.

Tôi "hiểu" được những người lính VNCH đã "suy nghĩ" như hạm trưởng HQ 10 cũ. Tôi "thông cảm" cho người ở lại như Trần Song Hải

Chỉ thế thôi.

Xưa, Tô Thùy Yên viết :

Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này

Nay, tôi chỉ biết mơ ước, có ai đó giải oan cho cuộc bể dâu này.

Vuong Tran Ngoc

Nếu các nhà chính trị VN sau 1975 được học môn lịch sử cẩn thận thì đã không có những cách ứng xử tương tự- như cách kết thúc nội chiến miền Nam và miền Bắc ở Mỹ chẳng hạn!

Cho nên học lịch sử thế nào cho thực sự khoa học và khách quan , cần có những lời giải đáp nghiêm túc !

Võ Văn Tạo ·

Họ sợ cả đến những nấm mồ người lính VNCH ở Nghĩa trang Biên Hòa.

Thanh Vo Viet

Câu nói của giáo sư Thọ rất chuẩn. Đau lòng là đến bây giờ tư duy của người cầm quyền vẫn có rất ít thay đổi theo hướng tiến bộ, có chung những giá trị với phần đông nhân loại tiến bộ.

Thoa Pham

Câu kết chuẩn xác .Và .Nói lên tất cả

SỰ KHÁC NHAU CHÍNH Ở CHỖ NÀY ĐÂY !!!

Rất nhiều comment . Link để xem:

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=3256661321325749&id=100009457401127

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Lưu Trọng Văn- 10 năm- Trò chuyện giữa Trần Văn Thọ- Trần Song H ải ( cha là Đại Tá VNCH, Hạm Trưởng HQ 10- Hải là người tổ chức cho các “chú của HQ 10 cũ” mỗi năm ở Đền Đức Thánh Trần, hiện gi ờ là TGĐ Tàu cao tốc Sài Gòn – June 16, 2022

Gia Long Brisbane thăm Cô Phương và Thầy- April 12, 2022

GIA LONG BRISBANE THĂM CÔ PHƯƠNG DẠY THỂ THAO

Xin được chia sẻ với các Gia Long khắp nơi

Với sự giáo dục cũ về tình Thầy Trò, chúng tôi , nữ sinh Gia Long Brisbane đã đến thăm GS Môn Thể Thao, cô Phương, ở Gold Coast vào Tháng 4/2022.

Vì đa số ở Inala nên một chị Gia Long đã lái xe 14 chỗ đưa chúng tôi đi. Có lẽ khoảng hơn một giờ

Thầy cô đã gần 90. Thầy coi vẫn khỏe, da dẻ hồng hào. Cô thì ngồi xe mấy năm rồi. Cô có thể chống gậy đi chút ít. Tuy thế, da dẻ cô coi vẫn tốt. Tinh thần vẫn minh mẫn. Niềm vui của mọi người già là được con cháu, học trò cũ thăm viếng.

Nhà Thầy cô rất đẹp. Vườn tược khang trang, đẹp, gọn , sạch. Ngay vườn trước là có Tượng Phật Bà Quan Âm. Tôi luôn đến lạy Phật mỗi khi thấy nhà nào có. Đường đi vào khu vườn sau nhà, hai bên đủ thứ hoa, cây trái mà nhiều nhất là cóc. Cóc thấp lè tè nhưng lủng lẳng chùm này chùm kia. Một giàn nhỏ mướp và khổ qua nho nhỏ coi rất xinh. Phía sau nhìn ra sông đẹp quá. Giòng sông phẳng lặng, sóng chỉ lăn tăn. Đôi chim thiên nga màu đen bơi thong thả, thanh bình.

Chúng tôi tụ tập ở bàn dài. Một chị đã đặt mỗi người một bánh giò, một bánh bao. Còn ai thích trổ tài thì mọi người hoan hô. Mỹ Duyên làm spagetti chay ngon quá chừng. Minh Huệ có món flan vừa miệng. Còn tôi thì mới "tối kiến" xôi macadamia thay vì (đậu phọng) nên có xôi, chả giò rế và bánh phồng tỏi. Tôi cũng đem bịch phồng tỏi (loại nhỏ) khá to để các bạn ai thích lấy một ít về chiên thử.

Phương Mai, con gái cô, cũng là Gia Long chuẩn bị nước uống, mít nhà ( rất ngon, ngọt) ( múi được tách và bỏ ngăn đá). Mai trổ tài tỉa trái táo thành cặp thiên nga rất đẹp.

Văn nghệ thì lúc nào cũng có chút đỉnh. Bích và ông xã song ca Cô Nữ sinh Gia Long. Nhật Minh hỏi " bài nào mà tất cả chúng ta đều còn thuộc lời há?’ Mấy cái miệng đồng thanh "Quốc Ca". Thật vậy, Quốc ca thì chúng tôi còn nhớ lời chứ Cô Gái Việt thì cả đám cũng phải mở cell phone đã coi lời!

Dễ thương nhất là chúng tôi "trẻ nhất" có lẽ cũng ngoài 60, già nhất cũng ngoài 70 mà khi hát, Nhật Minh đứng dậy khoanh tay " Thưa Thầy cô, tụi con xin hát bài Cô Gái Việt xin tặng thầy cô".

Kỳ trước thăm cô Phương, tôi hay trò chuyện với Thầy rồi Cô vì tính tôi thích phỏng vấn và đó là lần đâu tiên tôi gặp. Cô dạy tôi môn thể thao năm đệ ngũ hay đệ tứ gì đó. Kỳ này không thể trò chuyện vì không ngồi cạnh cô hay Thầy được.

Khi về, tôi nói to " Nào các bạn ơi, chúng ta khoanh tay chào Thầy cô ra về nào". Một số bạn đã chào, đã đi ra cổng, số còn lại đồng thanh chào "Thưa Thầy Cô, tụi con xin phép về" với tay khoanh y như thuở nhỏ nhỏ ngày nào. Tiếc là lúc đó không có ai bấm máy kịp.

Tôi chia sẻ bài này chỉ để cho thế hệ trẻ ngày nay thấy trước kia, chúng tôi được giáo dục ra sao và chúng tôi vẫn gìn giữ "NẾP NHÀ GIA LONG" ra sao dù đứa nào đứa nấy đã lục tuần, thất tuần và cô thì ngoài bát tuần.

Hoàng Lan Chi

GL 60-67

Link tại Facebook: https://www.facebook.com/lanchi7/posts/10229018152339894

Các bạn thông cảm, HLC chỉ xin được hình từ Quí nên vô tình Quí “bị” thành “người mẫu”!

Tuyết Nga-Kim Anh-Nhật Minh-Minh Huệ-Quí-Mỹ Duyên-Kim Hồng-Bích-Phưong Mai

Thầy-Cô Phương-Bà sui của cô-Hoàng Lan Chi
(HLC đã đứng dậy nhưng Minh Huệ ấn “chị cứ ngồi đó đi” nên bị lẻ loi!)

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Gia Long Brisbane thăm Cô Phương và Thầy- April 12, 2022

HLC- 47 năm nhìn lại- April 25, 2022

Hoàng Lan Chi

47 NĂM NHÌN LẠI

Thế là lại 17 năm trôi qua. Khi viết " 30 năm nhìn lại" là tôi đang ở Virginia, thành phố tình nhân, xứ sở hoa anh đào. Khi ấy tôi đang bắt đầu cuộc sống mới sau chuỗi ngày dài bị giam trong nhà tù CHXHCNVN. Khi ấy tôi đang sung sướng như chim được sổ lồng vì được hít thở không khí tự do, được hát lại quốc ca, được cầm lá cờ vàng phất phới trong tay. Tôi được thực hiện các chương trình âm nhạc mà tôi "say đắm" trong đó có tình ca quê hương của Phạm Duy, có bi hùng ca người lính của Nguyễn Văn Đông, có du ca của Nguyễn Đức Quang, có thơ của Tô Thùy Yên, Hà Huyền Chi. Tôi được viết văn kể chuyện xưa. Tôi còn được tham dự biểu tình ở Hoa Thịnh Đốn, tường thuật live về Đài Phát Thanh Việt Nam Hải Ngọai, đài Việt duy nhất bấy giờ ở DC. Tôi cũng được tham gia các sinh hoạt cộng đồng mà nhiều người đã "ăn cơm nhà vác ngà voi" để bỏ gia đình vợ con ra cộng đồng vào các ngày cuối tuần điều hành cái gọi là "Tổ Chức Cộng Đồng", một tổ chức tôi xem đó là một thành trì của người Việt quốc gia chống cs. Họ đã be bờ cho cộng đồng từ sau 1990. Khi ấy chưa có cái gọi là nghị quyết 36 của vc.

Phải, tôi đã có được những ngày vui vẻ vì cộng đồng chưa phân hóa, vì thoát được cs. Giới nhạc sĩ tài tử khắp nơi gửi tặng CD để tôi giới thiệu. Tôi đã chăm chỉ nghe các sáng tác mới ấy, đã gửi ra cho thính giả của đài Việt Nam Hải Ngọai cũng như ở net. Chương trình ấy không dễ thực hiện vì tôi phải nghe, phải viết lời giới thiệu, phải tìm thính giả cùng nghe và cho ý kiến. Tuy vậy tôi không bao giờ thấy "mệt mỏi" khi làm những việc có ích, giúp cho nhiều người như thế.

Tuy vậy khi tôi vào Ủy Ban Cứu Người Vượt Biển làm Chủ bút Nguyệt san Mạch Sống của tổ chức này, đồng thời phụ trách cả mảng Mạch Sống Media bao gồm cả truyền thành và truyền hình ( phát trên đài Việt Nam Hải Ngọai) thì tôi không thể thực hiện chương trình đó được nữa. Công việc bận lắm. Tối tăm mặt mũi. Cuối tuần nhiều khi bãi giữ xe mênh mông của Ủy Ban (chung với một tổ chức người Úc khác) chỉ có hai xe: xe của Giám Đốc Nguyễn Đình Thắng và của Hoàng Lan Chi! Ở đâu, trước hay sau 75, thì tôi cũng luôn làm việc hết mình và rất tận tâm, không hề ích kỷ, không hề tính toán thiệt hơn.

Không thể giới thiệu CD nhạc nhưng chương trình phỏng vấn có tên Trò Chuyện với Lan Chi thì thỉnh thoảng tôi vẫn thực hiện. Lý do, Mạch Sống Truyền Hình có chương trình "Lịch Sử qua lời kể" và tôi có nhiệm vụ phỏng vấn. (Tuy vậy sau này quá bận tôi không làm nữa). Lý do thứ hai, tôi vẫn dùng Trò Chuyện với Lan Chi để phỏng vấn mọi người về những gì có ích cho cộng đồng kể cả việc phỏng vấn Ts Thắng về chương trình HO đợt 2. Hoặc phỏng vấn Ts Hà Văn Hải cho cả chương trình của tôi hay của Võ Thành Nhân mỗi khi anh Hải ghé DC. Ts Hải khi ấy là đại diện cho HK tại Liên Hiệp Quốc. Cũng có khi tôi phỏng vấn mấy ông chủ tịch hoặc phó chủ tịch của các Tổ Chức Cộng Đồng khi mấy ông về VA do một sự kiện nào đó. Có thể kể ô Nguyễn ngọc Tiên, (Bắc CA), Nguyễn Kinh Luân (Dallas), Nguyễn Văn Tánh (Boston), Nguyễn Bác Ái ( Oregon)…

Sau này khi về CA học college, tôi vẫn có Trò Chuyện với Lan Chi ở Bút Tre (Arizona) nhưng từ 2016 thì …lười quá nên mail cho Chủ Nhiệm xin tạm nghỉ ít lâu. Ít lâu mà kéo dài đến hôm nay 2022. (cười)

17 năm qua, VNCS đã thế nào? Nhờ Mỹ bỏ cấm vận, nhờ NVL mà VNCS được "cứu" qua cơn khủng hoảng. NVL cổ vũ cho "đổi mới" và sau này được Võ Văn Kiệt tiếp nối. Sài Gòn vẫn là đầu tầu cứu cả con tàu VNCS.

17 năm, VNCS tung Nghị Quyêt 36. Hậu quả, một số không nhỏ văn nghệ sĩ ‘bò" về VN với các lý do 1,2,3,4. Hậu quả,một số không nhỏ các cựu quân nhân "bò về hưởng lạc" và khi trở qua hải ngoại thì dốc tâm "phản bội" lý tưởng quốc gia dưới nhiều hình thức (tham gia vẹm tân, mở nhiều tổ chức, hội đoàn để gây chia rẽ, chẻ đôi các Tổ Chức Cộng Đồng hay hội cựu quân nhân, chỉ trích những người ăn cơm nhà vác ngà voi với mục đích làm cho thế hệ 1,5 nản không ra cộng đồng làm việc nữa…). Hậu quả, hải ngoại bây giờ không như thời 1990. Phân hóa. Chia đôi, thâm chí chia năm xẻ bẩy.

17 năm. VNCS đã được Mỹ bỏ cấm vận từ 1990. VN có vị thế đặc biệt vì số lượng người Việt ở Mỹ rất đông và khối lượng người ở hải ngoại đã "chăm chỉ" gửi tiền, quà về. Những cái đó " giúp" cho VNCS qua được cơn hiểm nghèo.

17 năm. VNCS đã dùng tiền của quốc gia để lấn ra hải ngoại và trong nước thì đã xuất hiện những người chống chế độ. Họ được gọi là Tù Nhân Lương Tâm. Tôi nghĩ rằng trong số họ có khi là Thật và cũng có cả Giả.

17 năm. VNCS có Tự Do-Dân Chủ-Nhân Quyền chưa? dễ dàng trả lời "Chưa" vì còn đi theo chế độ độc tài thì làm gì có được những quyền "quý báu" ấy.

Nhưng bây giờ thì cá nhân tôi cảm thấy có chút vô vọng vì đã 47 năm trôi qua. Lứa chúng tôi, thế hệ Một đã và đang dần rơi rụng. Thế hệ 1,5 lứa đầu còn sức khỏe, có thì giờ hơn nhưng thế giới "đang già đi trông thấy", thế giới đang " buồn đi nhiều quá" và dường như nhiệt huyết trong họ cũng không sôi nổi như một thuở nào. Thế hệ 1,5 lứa sau thì có vẻ bị ảnh hưởng bởi giáo dục VNCS (nếu họ trưởng thành ở đây rồi mới qua Mỹ) hoặc chịu ảnh hưởng của giáo dục ở trung học Mỹ nên những suy nghĩ, lòng ái quốc, sự say đắm giòng lịch sử đẹp của đất nước, sự ngưỡng mộ những anh hùng thời lập quốc…, có vẻ khác chúng tôi rất nhiều. Buồn thay. Đau đớn thay.

Thôi thì cứ mặc cho con tạo xoay vần.

Gặp thời thế, thế thời phải thế *

Kiếp làm người cứ thế mà thôi!

Không lẽ như người xưa mà xin làm "cây thông đứng giữa trời mà reo" *

Rừng Gió Brisbane 2022

Hoàng Lan Chi

* Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ

BÀI CŨ- 30 NĂM NHÌN LẠI

Những ngày cuối tháng tư người ta ra đi ào ào, còn tôi khờ khạo chẳng biết gì. Không tìm đường đi đã đành mà còn ngây thơ, cho rằng miền Nam không thể mất.Cha mẹ cũng không biết gì vì là nhà giáo.

Sáng 29, cậu em ruột đã xuống tàu lại trèo lên mua ổ bánh mì và bị bỏ lại. Ôi ổ bánh mì! Em tôi đẹp trai, học giỏi, thông minh, nếu đi đuợc lúc đó thì hẳn cả gia đình tôi sau này sớm định cư Mỹ rồi.Trưa 30 tháng 4 nghe Dương Văn Minh đầu hàng, tưởng như giấc mơ. Cứ nghĩ làm sao Mỹ bỏ rơi Việt Nam? Việt Nam, tiền đồn của thế giới tự do. Sau phút bàng hoàng, ngắm nhìn trời Sài Gòn giữa trưa hè bỗng u ám, sầm tối, tôi vội vã đi chùi móng tay và bỏ thùng rác- mọi thứ dính líu đến chế độ cũ hay Mỹ như quân phục của người thân, sách viện trợ có hai bàn tay Việt Mỹ đan nhau…

Tháng năm mùng 2, một cậu trong ban Vật Lý Địa Cầu đến nhà “chị vô trình diện nghe”. Vào trường, đủ mặt bá quan văn võ.Cô Y, giảng nghiệm viên trong ban chúng tôi, đang ở trong phòng “Ủy Ban Quân Quản” để làm nhiệm vụ ghi tên mọi người.Trước kia, cô ta nằm vùng bị cảnh sát bắt bao lần và Thầy Trưởng ban đã bảo lãnh cho ra tù. Mọi phòng bị niêm phong. Có lẽ họ sợ… tài sản bị phá? Chúng tôi ngồi lê la khắp nơi tán gẫu.

1975-1976

Sau khi ghi danh, trường đóng cửa nghỉ để tòan thể giáo chức đi học chính trị. Một năm. Thời gian đầu, tạm thời tôi vẫn đuợc giữ lương cũ nhưng phải bỏ những giờ dạy tư thục. Mọi trường tư đuợc quốc hữu hóa. Các trường đại học tâp trung học chính trị ở Giảng đường Luật Khoa. Học xong thì ai về trường đó, chia nhóm, gọi là tổ để thảo luận.

Tôi còn nhớ một kỷ niệm vui ở Giảng Đuờng Luật Khoa-chính trị viên nói :

-Chúng ta phấn đấu để sau này mỗi nhà có một loa phát thanh!

Cả đám nhà lá (ngồi trên lầu để dễ nói chuyện!)ngó nhau… rồi không nhịn đuợc phá ra cuời.Tiếng cười lan rộng khắp giảng đường. Ngay hôm sau Thành ủy cử chính trị viên khác đến giảng. Cũng tốt thôi để họ biết rằng đám này không phải là dân quê Bến tre mà muốn nói gì cũng được.

Chúng tôi học hành ba trợn. Thành phần cách mạng “Ba lẻ bốn” tức cách mạng sau 30/4 là ra sức học tử tế. Nhưng cuối cùng thì ai cũng đậu. Ai cũng có cái bằng chính trị Mác lê. Thú thật, chỉ sau vài tháng, tôi quên sạch những gì đã học.

1976-1977

Trường bắt đầu xét, cái gọi là biên chế. Lúc đó ai cũng sợ mất việc vì chỉ có công nhân viên là đuợc nhà nước lo.Tiểu thương bị lên án, gọi bằng từ khinh miệt “con buôn”. Sau đó viện cớ tôi “tréo cẳng ngỗng” (học Hóa mà làm bên ban Lý). “Họ” cho tôi làm Thủ thư Thư viện khoa lý. Cũng khỏe. Một mình một cõi.

1977-1980

Từ 1977, thành phố… đói.Chẳng biết gạo ngon đi đâu? Hàng tháng, lãnh nhu yếu phẩm gồm 13 ký gạo hẩm độn mì sợi, bobo, nửa ký đuờng, 100 gram bột ngọt, 10 gói thuốc lá, 4 lít xăng, nửa ký thịt. Thỉnh thỏang đuợc mua cái mùng, lốp xe đạp, vải may áo ….Bấy giờ mới thấm thía những gì người miền Bắc kể lương một tháng chỉ đủ mua một cái áo len”!

Những ngày đầu ôm cái… băng vệ sinh, cuộn giấy kiss me về nhà thấy ngượng ghê lắm. Mỗi khi có hàng đặc biệt về “đột xuất” như cá, công nhân viên bỏ việc, xôn xao, tôi thấy ngậm ngùi. Trí thức vuợt biên, nhiều nhất là năm 1979. Thành ủy phải “viện trợ” một số tiền hàng tháng, cao hơn lương cho các vị Giáo Sư (cấp Tiến Sĩ) để giữ chân những tinh túy này. Tôi sinh con trai đầu lòng năm 78. Thằng bé ra đời trong tình trạng đói kém của tòan thành phố. Tôi bán từng cái áo dài – một thời vàng son đi dạy –mua từng gram thịt cho con… Mẹ tôi, người phụ nữ chỉ biết ở nhà nuôi dạy con theo ý chồng đã phải ra vỉa hè bán cà phê. Lý do, vào Nam với hai bàn tay trắng và cha tôi rất thanh bạch. Chị tôi, dược sĩ cho thuê bằng trước 75, đi dạy thêm trường tư, trước kia sống dư giả thì bây giờ ngoài giờ dạy phổ thông, phụ mẹ tôi bán cà phê mà vẫn không đủ nuôi ba con. Đương nhiên chúng tôi, bao gồm họ hàng và cả gia đình ruột của tôi đều vượt biên. Nhưng bây giờ nghĩ lại, quả là chúng tôi rất dở. Thay vì cả họ chung tiền giao cho một người, lo mua tàu thì có lẽ cả họ đã thóat sớm. Đằng này, không ai tin họ hàng mà tin người ngoài. Mạnh người nào người nấy tìm “tuyeau” riêng! Để rồi ai cũng bị mất, chỉ là nhiều hay ít.

1980-1985

Rồi họ hàng lần lượt thóat. Tôi bị Phòng Xuất Nhập Cảnh từ chối cấp giấy xuất cảnh năm 83 với lý do ghi trong giấy đàng hoàng “trí thức ở lại xây dựng đất nước!” Khỉ nỡm, chỉ vì cả hai vợ chồng đều “thành thật khai báo” nghề nghiệp.Tôi lập tức bỏ trường. Ông xã vẫn tiếp tục với hy vọng sẽ xin được cái giấy “hứa nghỉ việc”. Lê la bán cà phê vỉa hè lại là những ngày vui. Tôi sinh con gái năm 84. Đỡ nghèo hơn trước kia vì cơ quan ông xã làm có tiền và họ hàng gửi chút đỉnh viện trợ. Tiền bán cà phê cóc vỉa hè hơn lương “giáo viên” khi ở Đại Học Khoa Học nhiều. Dạo ấy, Bác sĩ, Luật sư học tập về, đạp xích lô khá nhiều. Lặng nhìn nhau ngậm ngùi cho thân phận trí thức.

1985-1900

Thành phố vẫn còn nghèo dù số tiền và hàng viện trợ của “Việt kiều” gửi về rất khá. Tôi vẫn bán cà phê và đúng là đổ mồ hôi sôi nước mắt vì mái tôn che tạm của quán cóc lề đường chỉ cách đầu hai mét. Họ hàng lần lượt vượt biên. Gia đình tôi quá xui xẻo, không ai đi được.Chị ruột tôi đi chính thức năm 85 và sau đó lần lượt bảo lãnh gia đình và người cuối cùng rời Việt Nam năm 96 là cô em út. Tôi bị dính hồ sơ Úc bên chồng nên không đi Canada. Nhà nước cho nghỉ việc khá nhiều nhân viên của chế độ cũ, dành chỗ cho người từ miền Bắc vào. Thành phố Sài Gòn tràn ngập tiếng Bắc cao lanh lảnh. Giọng nói Hà Nội thanh lịch của thời 1950 không còn, thay vào đó giọng Bắc khá kỳ cục dưới con mắt chúng tôi.

Người ra đi lo chắt chiu gửi từng thùng đồ cho người ở lại. Người ở lại lo bán thùng quà sao cho được giá để bù vào đồng lương ít ỏi mà sống cho qua ngày đọan tháng. Cái ăn chi phối toàn bộ khiến con người không dám nghĩ đến cái gì cao xa hơn. Số lớn gia đình Sài Gòn đều có thân nhân đang tù “cải tạo”. Chỉ số ít tù nhân được về sau năm bẩy năm còn đa số trên mười năm. Những gia đình tan nát vì người vợ trẻ không nuôi được con, đành làm vợ cán bộ. Nhiều gia đình tang tóc vì thân nhân chôn vùi lòng đại dương.

1900-2000

Quả là xã hội mới …đã xóa ranh giới giữa trí thức và lao động. Trí thức – lương ít ỏi – có khi còn thua tài xế xe hàng. Vậy thì cực khổ cho con học làm gì? Nhiều gia đình đã nghĩ thế. Tôi bỗng nhớ đến trường cũ- năm 1977 gì đó, chúng tôi – bao gồm giáo sư cấp Tiến sĩ đến người lao công của Khoa Lý phải theo xe trường xuống cơ sở của trường ở Thủ Đức và thay phiên nhau …lao động trồng dưa hấu. Đất của khoa có sẵn, giống thì mọi người phải chung tiền mua và lao động tưới nước. Kết quả thu họach là mấy sọt dưa hấu như trái cam. Đám người cũ chúng tôi cuời và nói lén với nhau:

-Một nông dân làm bài tóan, mất hai giờ trong khi giáo viên mất mười lăm phút. Cũng như nông dân trồng dưa hấu sẽ to như dưa hấu còn giáo viên thì bằng trái cam! Xã hội đã phân chia ai nhiệm vụ nấy rồi. Bắt trí thức lao động chân tay để đề cao công nhân thì quả là ngu xuẩn!

Đổi đời là thế. Một người bạn nói với tôi “cách mạng là cách cái mạng!” Tôi tự hỏi nếu không có tiền và hàng từ giới tư bản gửi về thì sao nhỉ? Số cán bộ gốc to chắc sẽ chết nhiều hơn vì thuốc tây của khối xã hội chủ nghĩa không thể bằng được thuốc tây của Mỹ Pháp. Xã hội sẽ nghèo hơn vô cùng? Thế mà năm 87 còn ngu xuẩn tính hạn chế Việt Kiều gửi tiền và quà đấy. Cũng may sau đó dân nằm vùng phân tích và dân của cục R sửa sai. Dân nằm vùng, từng sống dưới chế độ tư bản của miền Nam nên biết nhiều hơn. Cục R, ở trong Rừng nên biết ít hơn. Rồi đổi mới và thành phần tư bản mới –được gọi là tư bản đỏ xuất hiện.Đám trí thức cũ của miền nam, dân tự trọng thì vẫn lềnh bềnh lều bều – dân thiếu tự trọng, vuốt đuôi thì cũng nhà cao cửa rộng …

Ba mươi năm. Tôi ngậm ngùi nhớ lại vần thơ viết cho con gái út :

Bé ơi ngàn dặm xa xôi quá

Ai đã xui nên nỗi đọan trường

Vận nước,vận ta, ừ chung nhỉ

Thì thôi, đây đó cũng một chương!

Bé ơi thôi nhé đôi giòng lệ

Ta nuốt vào trong dấu ngậm ngùi

Dõi mắt trông vời nơi cố lý

Nguyện cầu, bé nhỉ, một ngày vui!

Vận nước, vận ta…

Một thời hoa mộng của tuổi trẻ đã trôi hững hờ trong thời kỳ đói kém, đại gia đình tan tác và mình thì công danh sự nghiệp chỉ là con số không to tướng. Tuổi già vẫn long đong nơi xứ người, vẫn cô độc ngay thủ đô –thành phố hoa đào-của bến bờ tự do!

Viết tại Rừng Gió Virginia 2005

Hoàng Lan Chi

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on HLC- 47 năm nhìn lại- April 25, 2022

HLC-Không có thời mạt sách hay mạt pháp- May 24, 2022

VẪN CÓ NGƯỜI TÌM MUA SÁCH BỊ MẤT. KHÔNG CÓ THỜI "MẠT SÁCH"!

Nhiều người than thở là internet ra đời làm sách giấy, báo giấy bị "giết". Điều đó đúng. Bao nhiêu báo giấy phải chuyển qua báo "online". Giới trẻ và giới sồn sồn, có lẽ đa số thích xem trên Ipad, computer hoặc các cụ già thì còn chọn nghe audio book. Vừa nghe vừa làm vườn, bếp…Độc giả của sách giấy, báo giấy thưa dần.

Thế nhưng số người thích sách giấy vẫn còn. Không có con số thống kê nhưng những người này thật đáng quý. Tuy tôi là người thích đọc sách nhưng quả tình bây giờ cũng không đọc được vì mắt kém. Đọc ở net có thể tăng chữ cho to, sách thì không. Tôi để lại ở VA rất nhiều sách và CD nhạc là quà biếu của các tác giả. Tại CA thì "tặng cho tủ sách" của ông anh rể. Ông này có bạn bè nhiều, chắc muốn cho bạn bè ngưỡng mộ khi thấy tủ sách của mình hoặc để bạn bè có cái mà đọc khi họ lưu lại ở nhà ổng vài ngày.

Tuần rồi tôi nhận mail từ một độc giả không quen biết. Tôi fw mail đó cho nhà văn Trường Sơn Lê Xuân Nhị. Những ai qua Mỹ lâu hẳn còn nhớ Nhị có một số sách thuộc loại "best seller". Có lẽ vì Nhị chọn con đường "phóng tác" một số từ truyện "mafia của hải ngoại". Cũng như trước 75, Hoàng Hải Thủy cũng thế. Con đường phóng tác các truyện nước ngoài của ông thành công rực rỡ. Đa số sinh viên thời tôi đều đọc Kiều Giang của Hoàng Hải Thủy. Độc giả này bị mất sách đã mua của Trường Sơn Lê Xuân Nhị vì dọn nhà và nay xin mua lại một số Tôi fw cho Nhị và viết vài giòng " Đây là món quà nhỏ của độc giả dành cho tác giả là em đó. Đúng không".

Vâng, khi nhiều người KHÔNG BÁN được sách mà sách mình được "lùng mua" thì quà đó có thể không nhỏ như HLC viết đâu nhỉ?

Trích mail từ độc giả gửi HLC:

Kính Chào chị Hoàng Lan Chi

Em tên là Cảnh Trần , hiện đang sống ở Tiểu Bang New Jersey

Trước tiên xin chị thứ lỗi cho em vì đã đường đột gởi email để nhờ vả chị . Em tìm nhà văn TSLX NHỊ lâu rồi , tình cờ em có xem một bài viết của chị về sự trao đổi email giữa chị và anh Nhị , vì vậy em nhờ chị chuyển những lời nhắn nầy đến nhà văn TSLX NHỊ

Trước đây em có mua 3 bộ truyện của anh Nhị ( có thủ bút của Tác Giả đề tặng )

1/ Phát Súng Ân Tình

2/ Xếp Alcapone

3/ Ngày Chủ Tịch

Vì em dọn nhà 2 lần nên mấy bộ truyện nầy bị mất , nay em muốn order lại tất cả , giá bìa trên mỗi đầu sách mười mấy năm trước và bây giờ thì chênh lệch rất xa , vì vậy em xin được trả theo như giá bình quân hiện tại là mỗi đầu sách $35.00

Kính mong chị chuyển đến anh Nhị lời chúc sức khỏe , cầu mong anh Nhị sớm BÌNH PHỤC .

Em kính Chúc chị luôn Vui Khỏe

Em Cảm Ơn chị nhiều

Kính

Cảnh Trần

Thật ra, không chỉ Trường Sơn Lê Xuân Nhị mà cuốn "MẶT TRẬN ĐẠI HỌC" của Bạch Diện Thư Sinh cũng là loại TÌM MUA KHÔNG CÓ. Tác giả chỉ tái bản một hai lần gì đó rồi thôi. Xưa, tôi tình cờ biết được Kiệt Lê, một người Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo, phụ trách Mặt Trận Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Vì thế tôi xem Kiệt là "sư huynh". Từ Kiệt, tôi biết đến Bạch Diện Thư Sinh và rất mê cuốn Mặt Trận Đại Học. Tồi bèn phỏng vấn và giới thiệu. Cuốn này "hút" vì viết về mặt trận tình báo giữa ta với vc trong các trường đại học.

ĐÂY CÓ PHẢI THỜI “MẠT PHÁP” KHÔNG

Nhiều khi thấy Dân Chủ thổ tả làm nhiều trò tệ hại, xã hội Mỹ ngày càng loạn, dơ thì chúng tôi bảo nhau "thời mạt pháp"!

Thế nhưng nếu đi một vòng youtube thì sẽ thấy số view, like cho các youtube của Thầy Thích Pháp Hòa hay Minh Niệm, tôi nghĩ rằng: không, không phải thời mạt pháp. Nhất là khi chứng kiến GIỚI TRẺ trong nước tham dự các buổi nói chuyện của Thầy Minh Niệm: tôi rất cảm động. Cảm động vì dưới chế độ CS, nhồi sọ bác, đảng và tràn đầy dối trá, lọc lừa nhưng nhiều người trẻ VẪN TỰ NUÔI DƯỠNG CUỘC SỐNG TINH THẦN bằng việc tìm đọc sách cũ học làm người trước 75. Do đó, họ vẫn đến Chùa để nghe thuyết pháp. Họ vẫn bật youtube để nghe các thầy giảng pháp.

Điều này làm tôi mừng. Rất mừng. Xin cảm ơn vẫn còn có người như Thầy Thích Pháp Hòa để giảng đạo pháp cho mọi người. Hãy tìm xem những youtube (Thầy Pháp Hòa giải đáp): rất hay, vui, thực tế. Rồi sau đó xem tựa mà chọn để nghe. Điều đặc biệt: Thầy Pháp Hòa có bộ mặt từ bi, phúc hậu, rất "đẹp trai". Nhiều phụ nữ còn không được những nét đẹp "mẫu" như Thầy: mắt to bồ câu, mũi thon gọn kín, miệng trái tim…Tôi nói hình Thầy đẹp như hình Phật Thích Ca nhưng chỉ có tai không được dài như Phật mà thôi

THẮC MẮC CÀ “CHỚN”!!

https://www.facebook.com/lanchi7/posts/10229257911093713

Hoàng Lan Chi viết: nhìn thầy Pháp Hòa, mắt bồ câu, mũi kín, miệng thì đúng là MIỆNG TRÁI TIM, đẹp vô cùng kể

Tui théc méc, Thầy có sửa sắc đẹp không há? Nhứt là sửa môi á. Sao mà viền môi của Thầy đẹp quá sức tưởng tượng vậy? Hay là thầy xâm??? Cái này, tui canh, chụp lại từ video à nha

Thầy coi đẹp như hình Phật Thích Ca ! Chỉ có điều Phật TC có tai dài hơn thôi. Video này, Thầy đẹp như Phan An tái thế: https://youtu.be/tMcxyN0Zsjw

Theo link, nhiều comment rất tếu vui

Hoàng Lan Chi

5/2022

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on HLC-Không có thời mạt sách hay mạt pháp- May 24, 2022

KHG Dương Nguyệt Ánh -thành công là “team work”, altitude được q/định bởi cái gì, nhận định về Ukraine, March 21, 2022

LGT: Cô Dương Nguyệt Ánh đến San Jose nói chuyện tại ngày giỗ Tướng Lê Minh Đảo. Nhân đó cô trả lời phỏng vấn

https://youtu.be/RGt-q881I9U

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on KHG Dương Nguyệt Ánh -thành công là “team work”, altitude được q/định bởi cái gì, nhận định về Ukraine, March 21, 2022

Văn Quang- Tiểu Sử- Văn Quang kể cho HLC nghe về “Chân trời t ím”, các tạp ghi liên quan hay viết về Văn quang- March 15, 202 2

TIỂU SỬ NHÀ VĂN VĂN QUANG

Văn Quang tên thật là Nguyễn Quang Tuyến, sinh năm 1933 tại Thái Bình.

Năm 1953, động viên gia nhập Quân Đội Quốc Gia, phục vụ trong nhiều đơn vị tác chiến tại miền Bắc trước hiệp định Geneve năm 1954.

Từ năm 1957, chuyển sang ngành Tâm Lý Chiến với nhiệm vụ Trưởng Phòng Báo Chí Quân Đội thuộc Cục Tâm Lý Chiến, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH và là Trưởng Ban Biên Tập của các tờ báo Quân Đội VNCH thời đó.

Từ năm 1969 cho đến 30/4/1075, là Quản Đốc đài Phát Thanh Quân Đội, cấp bậc Trung Tá. Tác phẩm đầu tay của Văn Quang là Tiếng Tơ Lòng được đăng trên nhật báo Than Dân, Hà Nội cuối năm 1953 và tác phẩm thứ nhì là tập truyện ngắn Thùy Dương Trang do Lạc Việt xuất bản tại Sài Gòn năm 1957.

Từ đó cho đến 30/4/1975, Văn Quang cộng tác thường xuyên với nhiều nhật báo, tuần báo, tạp chí tại Sài Gòn như Ngôn Luận, Chính Luận, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Tiếng Vang, Kịch Ảnh, Truyện Phim, Điện Ảnh, Văn Nghệ, Tiền Phong, Bách Khoa, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Tiểu Thuyết Tuần San…

Trong khoảng thời gian này, Văn Quang hoàn thành hơn 50 tác phẩm in trên các báo và đã có 28 tác phẩm được xuất bản. Các tác phẩm của ông hầu hết là truyện dài, trong số có những tác phẩm từng gây sôi nổi một thời trong giới độc giả trẻ như Nét Môi Cuồng Vọng, Nguyệt Áo Đỏ, Người yêu Của Lính… và đặc biệt đã có 4 tác phẩm được chuyển thành phim từ 1962 đến 1972 là Ngàn Năm Mây Bay, Chân Trời Tím, Đời Chưa Trang Điểm, Tiếng Hát Học Trò.

1. Chân trời tím được Quốc Phong chủ hãng Liên Ảnh chọn quay. Hùng Cường và Kim Vui thủ diễn hai vai chính trong phim Chân trời tím với bài “Nửa hồn thương đau” của Phạm Đình Chương do Thái Thanh hát. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã lấy nguồn cảm hứng từ cuốn tiểu thuyết này để sáng tác nhạc phẩm “Chân trời tím” cùng tên.

2. Ngàn năm mây bay thì do Thái Lai phim thực hiện với Hoàng Anh Tuấn làm đạo diễn và sĩ quan quân đội Phạm Huấn thủ diễn.

3. Phim thứ ba là Đời chưa trang điểm của hãng phim Giao Chỉ do ông Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn.

4. Cuối cùng là phim Tiếng hát học trò do Thái Thúc Nha của hãng Alpha thực hiện, Thanh Lan diễn vai chính.

Các tác phẩm của Văn Quang có thể phân thành 4 nhóm đề tài: mô tả cuộc sống tuổi trẻ, phản ảnh đời sống quân ngũ, phản ảnh thực đời sống thời chiến và những châm biếm những lề lói thời thượng lố lăng thuộc nhiều lãnh vực sinh hoạt, đặc biệt là các giới làm nghệ thuật.

Sau 30/4/1975, cũng như mọi sĩ quan quân lực VNCH khác, Văn Quang bị đưa qua nhiều trại tù từ miền Nam tới miền Bắc trong thời gian dài hơn 12 năm.

Tháng 9 năm 1987, được thả ra khỏi trại tù, Văn Quang trở về Sài Gòn và từ chối ra đi theo diện HO, quyết định tiếp tục ở lại Việt Nam.

Năm 1990, Văn Quang bắt đầu trở lại với việc sáng tác văn nghệ và Ngã Tư Hoàng Hôn là tác phẩm đầu tiên được hoàn thành sau nhiều năm bị “treo bút”. Tác phẩm này, đã được một số thân hữu của nhà Văn Quang tổ chức ra mắt tại Thung Lũng Hoa Vàng vào ngày 21/10/2001. (Trích phần giới thiệu về tác giả trong Ngã Tư Hoàng Hôn)

Từ năm 1992 Văn Quang là cộng tác viên thường xuyên của nhiều tờ báo Việt ngữ tại hải ngoại như báo Chiêu Dương tại Autralia, báo Người Việt, Thời Luận của nhà văn Đỗ Tiến Đức tại Nam California và Tiếng Vang, tại Sacramento… Riêng tại San Jose, thì Văn Quang chưa cộng tác chính thức với một tờ báo Việt ngữ nào trong. Thỉnh thoảng, độc giả được đọc một vài bài viết của Văn Quang trên nhật báo Việt Mercury. Độc giả San Jose, cũng còn được đọc bài viết kêu cứu của Văn Quang về “con gái của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ”, hay đề cập tới hoàn cảnh khó khăn, nguy ngập của Chú Tư Cầu nhà văn Lê Xuyên.

Năm 2009 ông được tạp chí Khởi Hành ở California trao tặng “Giải Văn chương Toàn Sự nghiệp Khởi Hành 2009″.

TÁC PHẨM

Tiếng Tơ Lòng (1953)

Hoàng Hoa Thám: Bài Học Xương Máu Của 25 Năm Đấu Tranh (1957)

Thùy Dương Trang (Tiểu thuyết 1957)

Những Lá Thư Màu Xanh (Tiểu thuyết 1963)

Tiếng Hát Học Trò (Tiểu thuyết 1963)

Nghìn Năm Mây Bay Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1963)

Nguyệt Áo Đỏ (Tiểu thuyết 1963)

Đời Chưa Trang Điểm (Tiểu thuyết 1964)

Từ Biệt Bóng Đêm (Tiểu thuyết 1964)

Nét Môi Cuồng Vọng (Tiểu thuyết 1964)

Chân Trời Tím (Tiểu thuyết 1964)

Những Tâm Hồn Nổi Loạn (Tiểu thuyết 1964)

Những Người Con Gái Đáng Yêu (Tiểu thuyết 1964)

Tâm Sự Người Yêu (Tiểu thuyết 1964)

Vì Sao Cô Độc (Tiểu thuyết 1965)

Những Kẻ Ngoại Tình (Tiểu thuyết 1965)

Người Yêu Của Lính (Tiểu thuyết 1965)

Đường Vào Bến Mê (Tiểu thuyết 1966)

Những Bước Đi Hoang (Tiểu thuyết 1966)

Tiếng Cười Thiếu Phụ (Tiểu thuyết 1966)

Tiếng Gọi Của Đêm Tối (Tiểu thuyết 1966)

Người Lính Hào Hoa (Tiểu thuyết 1966)

Quê Hương Rã Rời (Tập Truyện 1969)

Những Ngày Hoa Mộng (Phóng sự tiểu thuyết 1970)

Sài Gòn Tốc (Phóng sự tiểu thuyết 1970)

Trong Cơn Mê Này (Tiểu thuyết 1970)

Soi Bóng Cuộc Tình (Tiểu thuyết 1992)

Một Người Đàn Bà Những Người Đàn Ông (Tiểu thuyết 1998)

Sài Gòn Cali 25 Năm Gặp Lại (Ký sự 2000)

Ngã Tư Hoàng Hôn (Phóng sự tiểu thuyết 2001)

Lên Đời Tập 1 (Phóng sự tiểu thuyết 2001)

Lẩm Cẩm Sài Gòn Thiên Hạ Sự (Ký sự 2002)

Lên Đời Tập 2 (Phóng sự tiểu thuyết 2005)

NGHE VĂN QUANG KỂ VỚI HOÀNG LAN CHI VỀ HAI NHẠC PHẨM “ CHÂN TRỜI TÍM” CỦA TRÂN THIỆN THANH VÀ “NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU” CỦA PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG

Link để nghe: http://thuvientoancau.org/HoangLanChi/NhacChuDe/NhacPhim.mp3

( đây là chương trình Câu Chuyện Âm Nhạc của HLC năm xưa. Chủ đề Nhạc Phim. Hoàng Lan Chi phỏng vấn Văn Quang và Nguyễn Thụy Long. HLC từ Mỹ gọi về VN cho 2 nhà văn này)

TÀI TỬ CHÍNH “CHÂN TRỜI TÍM’, KIM VUI HÁT “CHÂN TRỜI TÍM” CỦA TRẦN THIỆN THANH:

https://youtu.be/yEWqCj6CvTw

MỘT SỐ BÀI TẠP GHI TRONG WEB HOÀNG LAN CHI CÓ VIẾT VỀ VĂN QUANG

§ Văn Quang-Có âm mưu đảo chánh năm 1975 không

§ Cỏ Hoang-Thư cho người bạn già-truyện ngắn hay- Hoàng Lan Chi xin chờ….

§

§ Từ “Cụ già” Văn Quang đến “Cụ già made in France from Vietnam, Trần Thanh Hiệp”

§

§ Kim Vui-Người phụ nữ Việt Nam hấp dẫn nhất thập niên 60-70

§ Dương Như Nguyện- Khuôn Mặt Kim Vui Trên Màn Ảnh Lớn VNCH

§

§ Từ Phượng Tím Cali đến “Chân Trời Tím” của Văn Quang.

§ Văn Quang-Vài kỷ niệm với đạo diễn phim Chân Trời Tím vừa từ trần

( CÒN BÀI “ Lan Chi âm vang mùa đông” do Văn Quang viết cho HLC mà tìm chưa ra)

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Văn Quang- Tiểu Sử- Văn Quang kể cho HLC nghe về “Chân trời t ím”, các tạp ghi liên quan hay viết về Văn quang- March 15, 202 2

Phạm Văn Duyệt- Mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ miền Nam- April 4, 2022

Mười cái chết oan khiên của Văn Nghệ sĩ miền Nam

(Sau ngày 30/4/1975, CSVN xâm lăng nước VNCH)

Phạm Văn Duyệt

Sau khi cưỡng chiếm Saigon, tập đoàn cọng sản đã thực hiện chính sách đối xử dã man tàn bạo với đồng bào miền Nam. Hậu quả là bao gia đình chịu cảnh tan nát đau thương, khổ lụy ngút ngàn. Một trong những thành phần bị đọa đày thê thảm nhất là giới văn nghệ sĩ. Sách báo còn thiêu hủy đốt cháy huống chi là con người. Mấy ai mà tránh được sự trả thù ác hiểm của quân cướp nước. Bài này xin điểm lại mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ trong khoảng thập niên đầu sau 75 như nén hương lòng tưởng niệm những người vị quốc vong thân đã từng góp công sức xây dựng nền văn học nghệ thuật nhân bản cho nửa nước thân yêu.

1. VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916 – 1976)

Đỗ Tú Tài 1937. Học Luật và Toán dang dở. Xuất bản chừng 20 Thi Phẩm và Kịch Thơ. Di cư vào Saigon 1954 hành nghề dạy học. Đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc 2 lần. Chủ Tịch Văn Bút Việt Nam.Những năm dạy ở trường Chu Văn An rất được học trò mến mộ.

Trong tập truyện Chốn Cũ, Nhà Văn Song Thao kể lại: Thầy đi quanh lớp bằng những bước chân nhẹ nhàng, đầu nghểnh cao, mắt xa vắng, giảng bài bằng cái giọng nhừa nhựa thanh thanh. Có những lúc mắt Thầy như nhắm hẳn lại, đầu lắc lắc từng chặp. Giây phút ấy Thầy như thoát hồn bay về một trời thơ nào đó. Thầy say thơ. Thầy ngâm thơ như người đồng thiếp. Như không có Thầy. Như không có trò. Như không phải là một lớp học. Chỉ có một cõi thơ lồng lộng bát ngát. Chúng tôi cũng thấm thơ. Vô cùng nồng nàn là những dòng thơ đất Việt. Chỉ có tiếng chuông báo hết giờ học mới có thể kéo thầy trò ra khỏi cơn mê văn chương.

Một cựu học sinh khác là Phạm Công Bạch cũng viết bài: Tại Sao Vũ Hoàng Chương bị bắt vào tù Khám Lớn?

– Vì Thơ vè mỉa mai chế độ: sau 75 nhiều thơ nhạc chế diễu chế độ mới lan truyền khắp mọi nơi. Đặc biệt là hai câu mà lắm người cho rằng Vũ Hoàng Chương là tác giả:

Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý

Đồng Khởi ra đời mất Tự Do

– Chê thơ Tố Hữu: theo bài đăng trên “net” của Sông Lô viết về Vũ Hoàng Chương nhận xét thơ Tố Hữu:

Sau 75, một phái đoàn từ bắc vô Saigon có mời Vũ Hoàng Chương tham dự trong đêm “họp mặt văn nghệ”. Đề tài đưa ra là hai câu thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình, thương một, thương ông thương mười

Cán bộ như Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Nghị, Vũ Đình Liên, Hoài Thanh đều ca ngợi. Riêng Vũ Hoàng Chương phát biểu: Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của nhà thơ để dạy con trẻ yêu cụ Stalin thay cho mình. Chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?Tôi biết chắc là không. Bởi từ đoạn trên của mấy câu lục bát này trong bài “Đời đời nhớ ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực của hai câu ta đang mổ xẻ.Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm, đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là khi có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẻ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm.

Theo Sông Lô, Vũ Hoàng Chương chính là người của tự do không phải quỵ lụy trước bất cứ áp lực nào. Nhà Thơ đã thế hiện khí khái tinh thần “uy vũ bất năng khuất”.

– Nhà Văn Mai Thảo có bài “Mấy Tháng Cuối Cùng Với Vũ Hoàng Chương”: Sau 75, Họ Vũ dời nhà về sống với vợ con Đinh Hùng (em Bà Chương) ở Gác Bút, Khánh Hội. Hỏi tại sao không dùng lại tên Gác Mây của căn lầu vùng Phú Nhuận vừa rời bỏ, thi sĩ cười, hóm hỉnh: “Đổi đời, giờ là Gác Bút mới đúng. Vì Hà Nội nó bắt ta gác hết bút lên rồi, đâu còn cho viết nữa”.

Từ cọng sản chiếm miền Nam, hơn ba triệu người đều “nói” Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là “Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa”. Gặp nhau là “Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Đó cũng là thêm một lý do gây tai họa cho Ông.Theo Mai Thảo, đám nhà thơ miền Bắc đặc biệt đố kỵ Vũ Hoàng Chương chỉ vì trời thơ hai miền hào quang Ông át lấn mọi hào quang khác. Mặc cảm tự ti khiến họ ghen ghét Ông như Vì Sao Bắc Đẩu của thi ca miền Nam rồi đưa tới hệ lụy cho việc bắt giữ.

– Mai Thảo viết theo lời kế của Bà Chương: 9:30 sáng 13.4.76 Vũ bị cảm lạnh còn đắp chăn không ngồi dậy được. 4 xe jeep đầy nhóc áo vàng mang súng ống như cho một cuộc hành quân lớn, ầm ầm vượt cầu Calmette phóng thẳng phường Cây Bàng và ngưng lại trước con hẻm nhỏ dẫn vào nhà Thi Sĩ. Bọn công an trên 20 đứa tới tấp nhảy xuống xe. Khoảnh khắc vây kín Gác Bút. Chúng chạy rầm rập, trí súng, mai phục theo tư thế chiến đấu.

Vũ bị đánh thức trong giấc ngủ chập chờn. Ông gắng gượng ngồi dậy, lấy áo gấm mặc vào, xếp bằng thật thẳng giữa chiếu, bất động như một pho tượng.

Bọn quỹ dữ ở lại lục soát trên hai tiếng đồng hồ. Ông không thèm nói với chúng lời nào. Chúng hỏi, Ông không trả lời, chỉ thoáng nhún vai rồi ngồi yên. Sau đó, hai thằng lực lưỡng nhất hùng hổ tiến lại xốc nách Ông lôi lên xe đưa vào khám Chí Hòa giam cầm cùng với một số trí thức khác kể cả Bác Sĩ Phan Huy Quát. Vì thương mến họ Vũ mà Cựu Thủ Tướng đã tận tình chăm sóc và không hề ngại ngần bưng bô cho thi sĩ.

Với thân hình gầy yếu sẵn có, lại thêm thiếu thốn mọi bề, sức lực Ông kiệt dần. Việt Cọng biết không thể sống được bao lâu nên thả Ông về để tránh tiếng bức tử trong tù. Vài hôm sau thì Ông mất với tâm thái an nhiên tự tại, chẳng vấn vương tiếc nuối điều gì.

Phải chăng Thi Bá đã chuẩn bị cho cuộc ra đi cuối cùng qua bài thơ Thôi Hết Băn Khoăn:

Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người

Sên bò nát óc máu thầm rơi

Chiều nay một dấu than buông dứt

Đinh đóng vào săng, tiếng trả lời!

2. NGUYỄN MẠNH CÔN (1920 – 1979)

Viết báo Đông Pháp từ 1939. Đến 1951 dạy học tư. 1956 – 61 chủ bút báo Chỉ Đạo. Xuất bản 13 tác phẩm. Có biệt tài viết truyện khoa học giả tưởng.

Theo Nhà Thơ Viên Linh, sách Nguyễn Mạnh Côn đều phơi bày những kiếp nhân sinh vắng bộ mặt người trong các xã hội cọng sản.Nhà Văn Mai Thảo cho rằng “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử và Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì? là hai tác phẩm chủ yếu của văn học Quốc Gia Việt Nam từ 54 đến 75 và là niềm vinh dự chung của văn học miền Nam”. Một số tướng lãnh rất khâm phục luận thuyết và viễn kiến của Ông.Sau 75, tên Ông đứng đầu danh sách 45 người nổi tiếng bị việt cọng bắt đi tù.Để hiểu rõ cuộc đời, tài năng, khí phách của Nguyễn Mạnh Côn, chúng ta hãy nghiền ngẫm tư liệu quý giá của Nhà Văn Vương Trùng Dương: “Nguyễn Mạnh Côn, Nhà Văn Can Đảm Chọn Cái Chết Trong Tù”: bài tổng hợp ý bạn văn, bạn tù của Nguyễn Mạnh Côn.

– Tù Nhân Đặng Hoàng Hà: bị giam cùng buồng với Nguyễn Mạnh Côn: sáng 2.4.79, trước cả ngàn tù nhân và cán bộ, Anh Côn đứng lên dõng dạc tuyên bố: “Tôi, Nguyễn Mạnh Côn, nhà văn chế độ cũ. Chính phủ nói bắt tôi đi “học tập” 3 năm. Hôm nay đủ hạn đó. Tôi yêu cầu chính phủ trả tự do để tôi về với gia đình. Kể từ hôm nay tôi không còn là tù nhân. Tôi sẽ không ăn cơm của trại nữa”. Anh vừa nói xong, toàn trại im phăng phắc. Sau đó việt cọng căm thù nhốt riêng không cho ăn uống đến nỗi thời gian sau có lúc Anh kêu la “khát quá! khát quá!” rồi kiệt sức và chết tháng 6.79.

– Ghi nhận của Nhà Báo Ngô Nhân Dụng: Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn có trí thông minh rất đặc biệt. Tuy sinh vào thời chiến tranh, không hưởng được nền học vấn có tính cách chính thức trên ghế nhà trường. Nhưng trí thông minh của Anh rất bén nhọn, Anh quan tâm tất cả mọi vấn đề trong phạm vi trí thức của nhân loại.

– Nhà Văn Nguyễn Triệu Nam: Nguyễn Mạnh Côn là văn sĩ có chân tài. Kiến thức phong phú, bút pháp tinh thông. Văn phong bình dị, trong sáng. Văn mạch sung mãn bất tận. Văn thái chuyển biến linh hoạt theo từng tình huống. Khi cần thì viết như một nhà thông thái hoặc như nhà phân tâm học.

– Nhà Thơ Viên Linh: 1940 Nguyễn Mạnh Côn vượt biên tới Hương Cảng để hoạt động trong Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử có thể kể là giai đoạn hoạt động thực sự ngoài đời của Anh. 1952 về Hà Nội rồi ra Hải Phòng dạy học cho đến 1955 thì vào Nam. 1957 đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc và 1975 được mời vào Ban Giám Khảo giải này.

– Nhà Văn Thế Uyên: Nguyễn Mạnh Côn không lập danh bằng đường võ, có lẻ một phần do thể xác yếu ớt mặc dù đã có thời anh thử bằng cách nhận chức trung úy đồng hóa nhưng không dẫn tới đâu cả. Anh cũng không thành công trong khoa cử nhưng lại thành công trong văn chương và tư duy với lối viết đầy sáng tạo, đi vào cả “vùng cấm địa” của Cụ Nguyễn Đình Chiểu, thế giới siêu nhân của khoa học giả tưởng và cả địa hạt tư duy chính trị có thị kiến viễn kiến với cuốn sách khá dày Hòa Bình, Nghĩ Gì, Làm Gì?

Anh là thứ cá côn, vùng vẫy thoải mái một thời trong thế giới chữ nghĩa.

– Họa Sĩ Tạ Tỵ: một buổi tối, Nguyễn Mạnh Côn, mang cấp bậc Thiếu Úy, tới tìm tôi tại văn phòng đường Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Anh cho biết được đồng hóa cấp thiếu úy để phụ trách tờ báo do Bộ Quốc Phòng chủ trương. Anh nhờ tôi trình bày trang bìa cho báo đó. Là báo Bộ Quốc Phòng nên tôi vui lòng vẽ giúp mẫu bìa, nhưng Nguyễn Mạnh Côn cũng tế nhị nói với cấp chỉ huy trả tiền cho tôi, vì báo có ngân khoản riêng để mua bài của các nhà văn.

Nhờ báo này mà Nguyễn Mạnh Côn có cơ hội chứng minh tài năng. Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn của anh được đón nhận nồng nhiệt. Anh dùng thuyết tương đối trong toán học của Einstein để giải minh cho một phương trình vận tốc trở ngược của thời gian. Câu chuyện vừa ly kỳ vừa khoa học làm say mê người đọc.

– Nhà Văn Tuấn Huy: Năm 1960, Nguyễn Mạnh Côn làm chủ bút tờ Chỉ Đạo đã ca ngợi văn tài của Duyên Anh khi đăng những bài viết Hoa Thiên Lý, Con Sáo Của Em Tôi…nói về tuổi thơ rất hay. Tên tuổi Duyên Anh được sáng giá trong giới cầm bút Saigon. Điều này nói lên tình bạn giữa hai người (tuy nhân cách sống của họ không giống nhau, một người hay khoác lác, một người điềm đạm, lịch sự, tế nhị).

Tuấn Huy phác họa chân dung Nguyễn Mạnh Côn là Nhà Văn Lặng Lẽ: Suốt 20 năm cầm bút, Nguyễn Mạnh Côn cứ từ tốn nhàn nhã như người đi dạo giữa dòng đời. Ông đã nêu lên những vấn đề thật lớn khiến người đọc phải suy tư – nhưng kìa, Ông chẳng có vẻ gì quan trọng và vội vàng. Được nhìn Ông ôm mớ sách báo, đi một mình vào nhà hàng để dùng bữa tối. Ông ngồi xuống chiếc ghế nơi chỗ bàn khuất. Gọi một món ăn bình dân và ly rượu chát. Rồi mở cuốn sách ra lặng lẽ đọc. Tôi không hề thấy ở Ông sự hoạt động náo nức nào của một “chính trị gia” hay một “nhà lập thuyết”. Ông vẫn là Nhà Văn lặng lẽ. Làm việc lặng lẽ. Suy tư lặng lẽ. Sáng tác lặng lẽ. Thưởng thức lặng lẽ và hướng thụ cũng lặng lẽ…

Lúc nào Ông cũng trầm ngâm. Ít Khi tôi thấy Ông vui hoặc Ông cười. Nếu có cười thì cũng chỉ là những nụ cười giới hạn. Tôi rất quý Nguyễn Mạnh Côn qua những tác phẩm của Ông nói lên giai đoạn lịch sử trong lằn ranh Quốc/Cọng”. (Tuấn Huy, Khởi Hành số 20, tháng 6.98).

– Tù Nhân Phạm Long với bài “Cặp Kính Của Bác Côn” (Khởi Hành số 20 đã dẫn): Tôi bị di chuyển đến trại Xuyên Mộc tháng 9.79, có nghe anh em sĩ quan kể chuyện Nguyễn Mạnh Côn đòi trả tự do. Sau đó bị cô lập, đem ra đấu tố hạ nhục và cuối cùng chết một cách tức tưởi.

Vào buổi sáng chủ nhật không đi lao động, một cậu nhỏ tù hinh sự tìm tới tôi rồi từ từ mở gói giấy báo nhỏ, lôi ra cặp kính với chiếc gọng nhựa màu nâu. Anh chàng nói giọng nghiêm trọng: “Kiếng của Ông Côn đấy. Hôm em đi chôn Ông bằng xe “cải tiến”, em thấy ở trong hòm cặp kiếng này. Em giữ làm kỷ niệm, nhưng mấy bữa nay đói quá, mấy anh đổi cho em 3 loong gạo”.

Tôi nghe kính của Ông Côn thì lòng chùng xuống. Đúng rồi. Đây là cặp kính của Bác Côn. Anh Nguyễn Quang Trù rất nhanh nhẹn, trả giá:

Một loong rưỡi thôi!

Cậu nhỏ gật đầu, chịu liền…”

3. CHU TỬ (1917 – 1975)

Một học trò cũ của Chu Tử là Hồ Xưa ghi lại bài viết “Nhớ Thầy Chu Văn Bình, Hiệu Trưởng Trường Trung Học Lê Văn Trung” (nguồn webhoidonghuongtayninh), trong đó có sơ lược tiểu sử Chu Tử qua lời tự thuật của Thầy.Mới 13 tuổi gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đầu năm 1930 theo Phó Đảng Trưởng Nguyễn Khắc Nhu đi hạ đồn Hưng Hóa nhưng thất bại rồi mất liên lạc với Đảng.Cuối thập niên 30 trở thành một trong vài người hiếm hoi của Sơn Tây đậu Cử Nhân Luật.Thời thanh niên mở trường tư, học trò rất đông, nhưng tấm lòng Ông không an phận ở đó. 1954 vào Nam, làm Hiệu Trưởng Trung Học Tây Ninh. Sau về Saigon lập báo Sống. Vì bất đồng chính kiến, tòa soạn bị Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Nhóm Phật Giáo cực đoan tấn công năm 1966 (vanviet.info). Cũng năm này, Ông bị việt cọng bắn vỡ quai hàm ngay trước nhà. Cùng ngày, Thượng Tọa Thích Thiện Minh, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên Phật Giáo bị đặt mìn dưới xe ô tô nhưng may mắn thương tích không trầm trọng.Chu Tử còn bị trúng đạn ở tay khiến Ông khó khăn trong việc cầm bút. Viết trở nên chậm chạp, tay run, mỗi hàng được chừng 3 chữ.Sau biến cố này, có bạn đọc gởi Chu Tử câu đối:

Thượng Tọa bể bàn tọa

Chu Bình sứt miệng bình

– Nhà Báo Trùng Dương nhận xét: Nhật báo Sóng Thần ra đời năm 1971 với chủ trương chống tham nhũng trong chính quyền và quân đội, hổ trợ cho cuộc chiến đấu chống cọng bảo vệ vùng đất tự do. Là tờ báo duy nhất mà tài chánh do các cổ đông thuộc mọi tầng lớp quan tâm tới vận mệnh đất nước đóng góp.

Giữa thập niên 1960, tình hình miền Nam khá đen tối: quân đội tranh nhau đảo chánh, tranh chấp ảnh hưởng của các phe nhóm tôn giáo (đặc biệt là Phật Giáo) và các đảng phái chính trị, việt cọng thừa nước đục thả câu, gia tăng đánh phá và ám sát. Do thẳng thắn bộc trực, Chu Tử đã “lùa” các nhân vật tai mắt không phân biệt đảng phái, ý thức hệ, tôn giáo, giai cấp mà Ông cho là bất xứng vào mục “Ao Thả Vịt” của Kha Trấn Ác (bút danh Chu Tử) được rất nhiều người đọc dù họ không biết có bao nhiêu sự thật trong đó. Tôi vừa phục vừa hãi cho người coi Ao vì đã làm một việc quá can đảm giữa môi trường hết sức nhố nhăng đầy súng đạn, thuốc nổ và đầu óc cực đoan, cùng đám việt cọng nằm vùng đang chực chờ phá hoại.

Bên cạnh giới hâm mộ, cũng lắm người thù ghét. Có thế nói Chu Tử nằm vào số ít thuộc giới văn chương báo chí trong ngoài nước được nhiều người biết đến.Dẫu sao, Chu Tử là nhà văn nhà báo thành công vượt bực. Yêu, Sống, Ghen, Tiền, Loạn bán rất chạy trên thị trường. Khi làm báo Ông cũng được ca ngợi như chủ báo hòa đồng thân thiện, hào sảng với anh em.

– Nhà Văn Hoàng Hải Thủy nói rằng trong 20 năm làm báo, ông chưa hề gặp chủ báo nào hào hiệp rộng rãi như Chu Tử đã từng hỏi ông: Anh muốn lấy bao nhiêu tiền nhuận bút và lệnh cho thủ quỹ chi trả ngay không chút chần chừ.

– Nhà Văn Võ Phiến, tác giả Tổng Quan Văn Học bình luận chi ly: “Chu Tử viết truyện được nhiều người khoái, mà làm báo cũng khiến lắm người khoái quá trời. Người ta khoái ông, khoái cái phong cách ông trong cuộc sống cũng như trong văn chương.

Tiểu thuyết ông có những nhân vật ngang tàng, bướng bỉnh, hoặc hào sảng, khí phách.Qua báo chí, với lối viết đơn giản bộc trực nên nhiều chuyện và nhân vật Chu Tử thả vào “Ao Thả Vịt” nghe như thật một trăm phần trăm ấy. Độc giả khoái tỉ, đem ra bàn tán. Sinh ra thù oán, bất bình. Ân oán giang hồ cũng từ đấy.Chu Tử tựa hồ như viên tướng giữa trận tiền, tả xung hữu đột, đánh đông dẹp tây, ủng hộ cánh này, húc đổ phe kia, gây nên sóng gió.Theo Võ Phiến, Chu Tử bắt tay viết cuối thời Đệ Nhứt Cọng Hòa. Ông đến với độc giả như một khuôn mặt mới mẻ trẻ trung, đột ngột, xông xáo, ngổ ngáo. Trong lớp trẻ sau này có biết bao nhiêu người – cả đọc lẫn viết – mê ông. Truyện ông thành công. Báo ông thành công. Lối viết của ông có ảnh hưởng rộng rãi. Sau ông, lắm kẻ cũng trổ tài hô hào, đập phá. Nhưng chưa ai qua mặt được ông. Vì ông không phải chỉ chịu chơi trên trang giấy bằng ngòi bút mà bằng cả cuộc đời. Ông sống như Ông viết: làm tiền ào ạt, vung tiền cũng dữ dằn, ăn chơi cờ bạc hưởng lạc đến nơi đến chốn, không ngại lao mình vào những hoạt động táo tợn, đụng độ với những nhân vật thế lực, nhiều lần trong đời ông đã đối đầu với súng đạn và sau rốt kết liễu cuộc đời bằng súng đạn.

Về cái chết của Chu Tử, Hồ Xưa ghi lại ý của ba nhà thơ:

1. Viên Linh: Định mệnh nào tai ác đã thù hằn đeo đuổi để hại cho bằng được con người khốn khổ tài hoa ấy. Trong quãng giờ khắc điêu linh bất hạnh của quê hương, và bằng cung cách gớm ghê thảm khốc dành cho một hình hài yếu đuối như Chu Tử vào trưa ngày 30.4.75 – khi Ông buồn bã đứng dựa thành tàu để nhìn Saigon lần cuối. Viên đạn oan khiên nghiệp chướng đã kết thúc đời Ông. Tôi như nhìn thấy Ông nằm ngay trước mặt, đau đớn, quằn quại trong vũng máu, kêu rên rồi gọi tên đứa con gái thương yêu Chu Vị Thủy đã phải cùng mẹ, em và chồng con ở lại…

Chu Sơn, con trai Chu Tử kể lại với Viên Linh: thi hài Chu Tử được bó vải thả xuống Thái Bình Dương vào hôm sau. Ông là thuyền nhân đầu tiên chịu thủy táng.

– Nhất Tuấn: có tiếng pháo kích từ bên bờ sông mé phải bắn qua. Đạn đại bác của xe tăng hay đạn B40, 41 quái quỷ gì đó…rơi lõm bõm trên sông. Một viên bay qua đầu chúng tôi, rơi trúng vào chiếc tàu to lớn – tàu Việt Nam Thương Tín chở hàng hóa và hành khách dân sự – đang vùn vụt chạy rất nhanh ở phía trái. Khói bốc lên nghi ngút trong chốc lát. Sau mới biết chính quả đạn này đã sát hại Nhà Văn Chu Tử…

– Du Tử Lê: Trong sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam, 20 năm, nhiều người biết tác giả tiểu thuyết “Yêu” là nhà văn Chu Tử, nhưng số lượng người biết nhà báo Chu Tử còn nhiều hơn gấp bội. Lý do, ở lãnh vực báo chí, ông đã không ngừng thổi luồng sinh khí mới cho nền báo chí thời đó vốn hiền lành, ngại đương đầu với chính quyền hoặc những nhân vật có thế lực về tôn giáo, chính trị cũng như những tệ nạn xã hội…

Chu Tử sống mang không biết bao nhiêu ngộ nhận và ân oán. Một người có văn tài và khí phách, sống giữa đám đông mà lúc nào cũng cô đơn thê thảm, cũng muốn bung phá và nổi loạn vì cái đớn hèn khiếp nhược ở chung quanh…Tôi nghĩ, thôi thà Chu Tử chết trầm hà như thế là yên phận…

4. HỒ HỮU TƯỜNG (1910 – 1980)

1926 du học Pháp, trình luận án Cao Học Toán. Kết bạn và tham gia hoạt động chính trị với những nhà ái quốc lưu vong: Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Văn Ngà.Ông theo xu hướng Trotsky chỉ trích hoạt động của đảng cọng sản Đông Dương, công kích chủ nghĩa Stalin, cổ xúy đường lối của Đệ Tứ Quốc Tế. Rồi 1939 tuyên bố từ bỏ Đệ Tứ và chủ nghĩa Mác.

Theo Bà Phan Thị Trọng Tuyến trả lời phỏng vấn của Đài RFA thì trong những văn kiện lịch sử của đảng cọng sản Việt Nam, người ta thấy nhắc đến những người Tờ Rốt Kít trong khoảng trước và sau 45, xem như bọn phản cách mạng chống lại Đệ Tam Quốc Tế của họ. Đây là phong trào cọng sản do Leon Trotsky thành lập tại Liên Xô năm 1924, đối lập với cọng sản Đệ Tam do Lênin lãnh đạo.Trotsky chủ trương cách mạng chống chủ nghĩa tư bản phải được thực hiện đồng loạt khắp nơi trên thế giới, trong khi Đệ Tam chủ trương thực hiện từng bước và Liên Xô là quốc gia đầu tiên, rồi sau đó sẽ lãnh đạo cách mạng thế giới. Theo Bà Tuyến, chủ trương của Đệ Tứ mang tính dân chủ hơn.

Về mặt lý thuyết thì Stalin chủ trương tập trung dân chủ, tức là một đảng nắm hết mọi quyền, những đảng hay khuynh hướng khác phải phục tùng. Theo Trotsky thì tập trung dân chủ chứ không phải một đảng nắm hết. Về sau, Đệ Tứ bị Đệ Tam tiêu diệt. Trotsky phải lưu vong ngay sau khi thành lập và cuối cùng bị ám sát chết.

Bà Tuyến nói: “nhóm Đệ Tứ bị những người Đệ Tam, tức Việt Minh, lùng giết sau cách mạng tháng tám là chuyện có thật. Stalin đã truy lùng Trotsky thì Việt Minh cũng không làm gì khác hơn là áp dụng đường lối đó. Bà Tuyến nói đảng cọng sản chưa bao giờ nhìn nhận họ đã ra tay sát hại phe Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu. Theo Bà, khoảng 400 người Đệ Tứ bị mất tích hoặc giết hại trong giai đoạn 45 khi họ tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1953 Hồ Hữu Tường đề nghị cọng sản để Việt Nam trung lập, nhưng không được chấp nhận. 1957 bị đày ra Côn Đảo vì Cố Vấn Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia chống Tổng Thống Diệm.

1967 đắc cử Dân Biểu Đệ Nhị Cọng Hòa và tiếp tục viết báo.

1978 bị bắt do kiến nghị cọng sản trung lập hóa Việt Nam. Tháng 6.80 bệnh nặng khó cứu chữa, được cho về nhà và mất ngay hôm đó.

Đã viết 1000 bài báo và hơn 30 sách truyện giá trị.

Trong Hồi Ký 41 Năm Làm Báo, Hồ Hữu Tường tự nói về mình: “nào là nhà cách mạng, nào là nhà nghệ sĩ, nào là nhà khoa học, nào là nhà văn, nào là kẻ đam mê tình ái, nào là tâm hồn tu sĩ, và nào là nhà báo”.

– Nhà Văn Thụy Khuê tóm tắt vài điểm chính về Hồ Hữu Tường:

*Bị tù nhiều lần dưới tất cả các chính quyền thực dân, quốc gia, cọng sản. Suốt đời chống chiến tranh.

*Con đường Ông đi không có nhiều đồng hành, bởi tiếng kêu gọi của Ông chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc, không ai nghe mà cũng ít người hiểu.

*Ham mê sách. 6 tuổi đã đọc Nam Phong. Đọc đâu nhớ đấy. Cha đặt cho cái tên thằng Thuộc vì đọc gì cũng thuộc.

*Có dòng dõi Hồ Quý Ly và Hồ Thơm Nguyễn Huệ.

– Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân nhận xét trong bài “Hồ Hữu Tường, Như Tôi Nhìn Thấy”: cuộc đời Hồ Hữu Tường hiện lên một con người vượt thoát hoàn cảnh, có lòng say mê với chữ nghĩa, một nghị lực khác thường, một tri tuệ năng động, một sự lạc quan và tự tin hiếm thấy”.

Hồ Hữu Tường kể chuyện viết tiểu thuyết với Khái Hưng (Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm nguyên soái của “văn chương sáng giá”): Khái Hưng rủ tôi cọng tác viết tiểu thuyết, cốt truyện, triết lý do tôi xây dựng, Khái Hưng lãnh phần trình bày cho có nghệ thuật. Tôi đã phác họa vài nhân vật và cốt truyện, đặt tên Gái Nước Nam Làm Gì? Sau về Nam, để tưởng nhớ Khái Hưng, tôi thử viết tả những người này, trình bày được hai hình tượng Thu Hương và Chị Tập. Nhưng sự ướm thử ấy cho thấy là tôi không có tài viết tiểu thuyết, nên không nối tiếp nữa.

– Nhà Văn Trần Bảo Định: Hồ Tiên Sinh vẫn là người hiền của đất Nam Bộ. Ông mãi loay hoay vì canh cánh thế sự, vì thấy thế cuộc đảo điên theo vận nước đầy vơi dưới thời thực dân Pháp cai trị và bản thân ông cũng vần xoay…vần xoay liên hồi. Hồ Tiên Sinh hẳn đã sống trọn vẹn một đời “phi lạc”. Dẫu vậy Ông đã có cả cuộc đời bộn bề vận hội mà chắc hẳn không còn gì hối tiếc, bởi Ông đã “chơi tới bến” – sống hết mình với những sự thế gặp phải trên đường đời.

Trong Phi Lạc Sang Tàu, Hồ Hữu Tường viết: Nền văn minh trục lợi của Âu Tây là cái văn minh chỉ lo vơ vét cho lợi được nhiều, chẳng biết điều nhân, chẳng nghĩ đến đức, không chút đoái hoài việc tu dưỡng loài người ngày càng cao quý về vật chất lẫn tinh thần mà chỉ lo chèn ép bóc lột sao cho có lợi nhiều. Văn minh ấy bủa lưới khắp quả địa cầu, không đâu thoát được. Vì vậy mà sự trúc đổ của nó sẽ làm cả nhân loại bị trúc đổ.

5. PHẠM VĂN SƠN (1915 – 1978)

Biên khảo nhiều sách sử, trong đó công phu nhất là Bộ Việt Sử Tân Biên.Đại Tá Sơn ra đi để lại nhiều tiếc thương cho đồng đội. Đây là lời kể của một số nhân chứng về sự cố “nhịn đói chịu đau mà chết” của Ông:

– Nguyễn Văn Dưỡng: “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn” (https://vietmessenger.com) Từng là thuộc cấp của Ông Sơn. Tôi biết Ông rất thận trọng, không hề khinh xuất trong nhiệm vụ.

Ông thường nói: “phải cố gắng làm sao cho mức độ trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình viết về sử mới có giá trị”.

Với quan điểm cẩn trọng như vậy nên Mùa Hè Đỏ Lửa lúc mà chiến trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có một con đường, giành nhau từng góc phố – giữa các đơn vị quân ta và địch – khi mà những cơn pháo dữ dội của đối phương chưa giảm – khi không một trực thăng nào đáp xuống lại không sợ tan xác, thế mà Ông đã đích thân bay vào An Lộc để viết sự thật về cuộc chiến khốc liệt đó, cùng tôi ở trong hầm chống pháo một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo cọng quân rơi trên đầu mình, vừa hỏi tôi những sự kiện chi tiết ghi trong nhật ký hành quân.Năm 1980 Ông Dưỡng bất ngờ gặp Thầy cũ ở trại Tân Lập, Vĩnh Phú, lúc chỉ còn là cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chắn song sắt, bên trong cửa sổ phòng “cách ly”.Ông trùm kín đầu bằng khăn lông trắng đã trở vàng cáu bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Khăn quấn kín cổ, chỉ chừa mắt, mũi, miệng để che bớt đi vết lở lói trên mặt bởi chứng nan y.Mũi, má Ông đỏ ửng bóng, lông mi rụng hết. Hai bàn tay sưng tấy, ngón co lại, móng khuyết hay mất hết. Ông bị tàn phế cấp độ nặng.Một buổi sáng, quản giáo ra lệnh cho Ông đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại. Do kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu, bất tỉnh rồi chết. Cả người nhầy nhụa máu me.

– Trường Xuân Phu Tử Hồ Quang (Hồi Ký về Đại Tá Sử Gia Phạm Văn Sơn, https://huongduongtxd.com).Trong thời gian bị giam giữ, Đại Tá Sơn đã can đảm viết đơn gởi đảng và Nhà Nước nhờ trại chuyển: xin các Ông hãy xem xét lại cách đối xử với chúng tôi, những hình thức dã man như vừa qua hoàn toàn không có lợi mà ngược lại rồi đây lịch sử sẽ ghi thêm vào đấy vết ô nhục ngàn đời (dựa theo lời của tên Nhàn, trưởng ban thi đua trại).

Đại Tá Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật, chấp nhận cái chết, vì muốn đòi quyền lợi cho tù nhân chính trị được hưởng quy chế tù binh. Tuy ước vọng không thành nhưng cũng giúp cho anh em còn sống được dễ thở hơn.

– Huỳnh Hữu Ủy (Vài Điều Tản Mạn Nhân Đọc Bài Viết “Cái Chết của Sử Gia Phạm Văn Sơn”, https://dongsongcu.wordpress.com)

Cùng bay vào An Lộc với Đại Tá Sơn giữa lúc đạn pháo địch nổ ầm ì tưởng chừng trực thăng bị bốc cháy, Anh Ủy nhận xét: Ở Khối Quân Sử, các sĩ quan trẻ hầu hết là vừa xong đại học, đi lính vì đất nước đang thời chiến loạn. Với loại thuộc cấp này, Đại Tá Sơn chẳng bao giờ tỏ ra là người chỉ huy, chẳng có chút nào chất quân phiệt, không áp dụng kỷ luật nhà binh mà ngược lại rất nho nhã, thường hành xử như một nhà văn với đồng nghiệp cũng là những người cầm bút.

– Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục cho rằng Phạm Văn Sơn có sử quan rất tiến bộ, vượt hẳn quan điểm duy vật lịch sử không tưởng của các sử gia Mác xít lấy đấu tranh giai cấp làm xương sống để giải thích mọi tiến trình lịch sử.

– Bác Sĩ Phạm Hữu Phước: Trích từ “Dòng Sông Cũ: Hậu Củ Khoai Yên Bái – Hồi Ký về Cái Chết của Đại Tá Phạm Văn Sơn”.

Ở tù cùng trại. Từng khám bệnh Đại Tá Sơn. “Từ thời còn trung học Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, tôi đã được đọc “Việt Nam Tranh Đấu Sử” của Phạm Văn Sơn mà xúc động khôn cùng. Tôi kính trọng, thông cảm, ngã nón bái phục tiền nhân của tôi đã hy sinh cả cuộc đời và cả yên ấm gia đình chỉ vì lòng yêu nước vô bờ. Ông viết sử mà lời văn trong sáng, đanh thép, hừng hực lửa như tấm lòng của tiền nhân. Có đoạn tôi không cầm được nước mắt.

“Ông bị bệnh vảy nến (psoriasis) khá nặng, da sần sùi nên nhiều người tưởng lầm Ông bị bệnh cùi.

“Có những buổi tối lạnh lẽo, trạm xá đốt lửa sưởi ấm và chuyện vãn. Thường mời Đại Tá quây quần để nghe Ông kể chuyện xưa lưu loát, mạch lạc. Ông là cả kho kiến thức về sử.

“Đại Tá Sơn đã sống đúng mẫu mực của một quân nhân với châm ngôn Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Trước cường quyền và độc tài, Ông không khiếp sợ van xin, luôn ngẩng cao đầu mà nói với cọng sản ‘các ông làm như thế là lưu xú uế lại cho muôn đời sau’.

Với Ông, “Anh hùng tử, khí hùng bất tử”.

6. HỒ ĐIỆP (1930 – 1988)

Di cư vào Nam 1954. Tên thật Nguyễn Thị Tý. Sau khi phát hiện tài năng thiên phú của Bà, Đinh Hùng đặt nghệ danh là Hồ Điệp.Báo Nghệ Sĩ (https://thoixua.vn) đã giải thích cái tên được hằng triệu người yêu mến qua bài “Xót xa thay cho giọng ngâm Hồ Điệp – tài năng nhưng cuộc đời lại quá đổi đau thương”: Hồ Điệp nghĩa là Cánh Bướm, ý rằng giọng ca của Bà nhẹ nhàng, mỏng manh mang lại đầy màu sắc như những cánh bướm.Bà thường ngâm thơ trên chương trình Thi Văn Tao Đàn (Tiếng Nói Thi Văn Miền Tự Do), được đánh giá là giọng ngâm nổi bật nhất thời đó.Gần mười giờ đêm cảnh vật xung quanh yên tĩnh, lắng nghe Hồ Điệp với giọng trầm buồn phảng phất nét liêu trai tưởng chừng ru ta vào cõi mộng. Ngót 60 năm rồi nhiều người vẫn còn nghe thoang thoảng đâu đây giọng ngâm có một không hai của người con gái Sơn Tây qua bài “Gởi Người Dưới Mộ” của Đinh Hùng:

Trời cuối thu rồi – Em ở đâu?

Nằm trong đất lạnh chắc em sầu

Thu ơi! đánh thức hồn ma dậy

Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu

Em mộng về đâu?

Em mất về đâu?

Hằng đêm ta nguyện, ta cầu

Ấy màu hương khói là màu mắt xưa

Em đã về chưa?

Em sắp về chưa?

Trăng sao tắt ngọn đèn mờ

Ta nằm rỏ lệ, đọc thơ gọi hồn

Giữa đêm trăng bàng bạc, nghe Bà ngâm nga thánh thót, ai ai cũng đều rùng mình tưởng chừng như hồn lạc vào cõi âm.Hồ Điệp có khuôn mặt phúc hậu, hiền dịu. Nụ cười luôn nở trên môi khiến nhiều người thương mến. Nhà Thơ Nguyễn Phan Cảnh ví von Bà là Nữ Hoàng Thanh Sắc:

Thanh Sắc vọng mãi Đất Trời

Nghìn thu cánh bướm vỗ hoài Hồn Thơ

Với tài năng ít ai sánh bằng, Bà được mời diễn ngâm ở Pháp, Thụy Sĩ, Thái Lan, Nhật, Đài Loan. Khán giả xa quê lâu ngày, tâm hồn nhớ nhà nhớ nước, lắm người không ngăn được dòng nước mắt nức nở nghẹn ngào khi nghe Bà đưa hồn mình vào cõi thơ sầu mộng.Bích Huyền của Đài VOA kể lại trong bài “Một Thoáng Hương Xưa”: Vào năm 1960 tại cuộc họp một số văn nghệ sĩ có Vũ Hoàng Chương, Hồ Điệp, Nhà Văn Mặc Thu (tác giả Gang Thép Đợi Chờ và Bát Cơm Bát Máu), Vũ Quân tặng Hồ Điệp, Mặc Thu hai câu thơ:

Mưa cầm, gió bắc thương Hồ Điệp

Thép đợi, gang chờ xót Mặc Thu

Nhà Thơ Hoàng Hương Trang cho biết Ca Sĩ Thái Hằng (chị em bạn bằng dì với Hồ Điệp) tiết lộ lúc còn nhỏ Hồ Điệp là cô bé rất xinh đẹp với giọng cười trong như dòng suối tinh khiết, ngày đó chưa u uẩn và chưa biết buồn viễn xứ. Khi vào Saigon, Hồ Điệp hay ra quét lá cây trứng cá rụng đầy sân. Cô thường mặc quần satin tuyết nhung, áo phin trắng nõn, gấu và cổ tay có thêu rua. Buổi tối đi hát, Cô đeo kiềng vàng, mặc áo nhung đen rưng rức trơn một màu, không thêu, không vẽ. Choàng tấm khăn voan mỏng, chân mang hài cong. Trang điểm sơ sài, tóc bới cao hay quấn khăn vành dây. Cử chỉ cực kỳ khiêm cung, nhỏ nhẹ với nét đẹp cổ kính của thục nữ Bắc Hà.

– Phạm Công Luận: “Saigon – Chuyện Đời của Phố: Chương Trình Ngâm Thơ Tao Đàn”. Theo báo Trẻ số 7 Tập 1 năm 1960, Hồ Điệp có giọng mang phong cách cổ điển, âm hưởng ca trù, thành công với các bài thất ngôn và lục bát, nhất là các đoạn thơ trong truyện Kiều, thơ Bà Huyện Thanh Quan, thơ T.T.KH rất được thính giả hâm mộ.

– Chu Văn Lễ nêu nhận định: giọng ngâm Hồ Điệp chắc chắn đóng góp phần không nhỏ cho sự phát triển của bộ môn này và trở thành một phần không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật miền Nam.

Sau 1975, Hồ Điệp từ chối trình diễn, chỉ nhận lời ngâm thơ tại các Chùa hoặc nhà bạn hữu.Bích Huyền mời chúng ta cùng nghe Trần Vĩnh Tường, cựu nữ sinh Trưng Vương viết về Hồ Điệp với bài “Cánh Bướm Bên Trời”: “Năm 1987, tôi ở trại tị nạn Sin Thai dành cho người vượt biên đường bộ nằm lẻ loi giữa chân ngọn núi Danreck, thuộc địa phận Thái Lan, cách biên giới Căm Bốt chừng 1 km. Lúc đó tôi đang làm việc cho cơ quan Hồng Thập Tự Quốc Tế, lo chuyện đưa đón, theo dấu người tị nạn tìm cách đưa họ rải rác từ những cánh rừng về trại.Hôm đó chúng tôi nhận được lá thư từ Mỹ gởi qua nhờ theo dõi tin tức một người thân đã rời Saigon khoảng đầu 1988. Thư cũng cho biết nhóm này gồm 11 người trong đó có Hồ Điệp. Đọc xong lòng tôi nghẹn ngào. Phần vì lo, phần vì mừng. Đã có người đến được trại, nhưng có những bước chân thì vĩnh viễn ngừng lại ở đâu đó, giữa cánh đồng, nơi khe núi, bên cạnh bụi tre rừng…Tôi đi báo tin cho một số bạn trong trại. Đêm đó ngồi bên nhau, chúng tôi say sưa nhắc lại những bài thơ, những giọng ngâm của Tao Đàn ngày trước. Ngoài Hồ Điệp, Giáng Hương, Hoàng Oanh. Bên nam còn có Tô Kiều Ngân, Quách Đàm, Hoàng Thư.Con Giáo Sư Nguyễn Sĩ Tế là Nguyễn Sĩ Độ mang ghi ta đệm nhẹ vài dòng nhạc cho Thu Hà cất tiếng ngâm bài Gởi Người Dưới Mộ mà Hồ Điệp đã có lần ngâm trên Đài Saigon.Bài Thơ hay quá đổi, quá liêu trai, phù hợp với ánh trăng xanh nhạt rải trên mái tranh, trên từng đám lá mồng tơi.Tôi quay lại nhìn rặng núi tím thẳm đằng kia để lén lau nước mắt…

Ngày qua ngày, mỗi khi có người tị nạn đến trại, chúng tôi đều hỏi thăm, thế nhưng thời gian trôi đi, Cánh Bướm vẫn biền biệt bên trời. Không ai có thể ở trong rừng 6 tháng mà sống sót được.Buổi tối cuối cùng, tôi lên trại Panat để đi Mỹ, bùi ngùi giây phút chia ly. Mọi người yêu cầu Thu Hà ngâm lại bài Gởi Người Dưới Mộ.Bỗng dưng một cánh bướm lẻ loi bay chập chờn trước mặt. Hết đậu trên phím ghi ta lại nằm yên trên tay Thu Hà. Mọi người rùng mình ớn lạnh nhìn nhau. Hay là Hồ Điệp cảm động mối tình chung thủy của thính giả mà bay về đây báo mộng.Qua Mỹ nhiều năm. Đọc báo không thấy tin gì về Hồ Điệp cả. Thôi…thôi! Vậy là mây đã tan. Trăng đã khuyết. Ngọc đã về thật rồi”…

Hoàng Hương Trang cho biết di ảnh Hồ Điệp được một thính giả thần tượng giọng ngâm của Bà đặt thờ trong Chùa An Lạc, đường Phạm Ngũ Lão, Saigon.

Theo NguoiVietBoston, các con của Hồ Điệp định cư ở Mỹ. Tiến Sĩ Nguyễn Quốc Quân về Việt Nam năm 2007 tổ chức cuộc vận động phong trào dân chủ trong nước và bị bắt giam 6 tháng.

7. MINH KỲ (1930 – 1975)

Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia. Dòng dõi Hoàng tộc, vai vế ngang hàng Vua Bảo Đại. Sáng tác hơn 100 nhạc phẩm rất được ưa chuộng.

Là một trong ba thành viên nhóm Lê Minh Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ, Anh Bằng), hoạt động từ 1966 đến 1975 với chừng 200 ca khúc trữ tình lãng mạn.

Lê Dinh tâm sự: tuổi tác chúng tôi xấp xỉ nhau, khuynh hướng sáng tác cũng gần giống nhau cho nên dễ kết thân, đi đến thành lập nhóm, mở lớp nhạc và làm cố vấn cho hãng đĩa Sóng Nhạc của Ông Nguyễn Tất Oanh. Ba người ở ba miền mà tương đắc, gắn bó, tri âm tri kỷ gần mười năm. Lê Dinh cho là hữu duyên thiên lý năng tương ngộ.

Chỉ nghe qua câu chuyện 3 Nữ Sinh Viên Đại Học Khoa Học (Mai, Bích, Dung) trong buổi tao phùng gặp gỡ Lê Minh Bằng tại bãi biển Vũng Tàu là đủ thán phục tài năng của nhóm này khi ngay sau đó họ cảm tác Linh Hồn Tượng Đá:

Trên dốc đá tôi tình cờ quen nàng

Ngồi bên nhau, gọi tên nhau để rồi xa nhau

Em đã đến và đã đến như áng mây

Như cánh chim bay qua bầu trời

Ôi hình hài một vài giờ vui…

Tôi đứng đó như hình một pho tượng

Chờ ai đây, đợi ai đây và tìm ai đây

Nghe nuối tiếc gào thét giữa muôn sóng khơi

Nghe trái tim rung lên bồi hồi

Chắc gì gặp lại lần thứ hai…

Theo Lê Dinh, Minh Kỳ làm nhạc xuất sắc, nhanh và hay. Các tác phẩm cho ra đời đều rất tuyệt vời, chạm đến nỗi lòng người nghe.

Ca Sĩ Hoàng Oanh ca ngợi nhạc Minh Kỳ tha thiết, trìu mến. Giai điệu đơn giản, uyển chuyển, dễ đàn, dễ hát. Nét nhạc trong sáng, bình dị.

– Ca Sĩ Thái Châu cảm thấy may mắn khi được tiếp xúc nhiều lần với Minh Kỳ: Tôi từng gặp anh để trao đổi về ca khúc Cát Bụi và học hát bài này sao cho cảm xúc. Tôi xem anh như người Thầy và nhớ mãi khoảnh khắc anh trầm ngâm động viên “chú rán hát cho hay, cho tốt”. Nhờ Anh mà tôi học được rất nhiều kỹ năng trong ca hát lẫn cuộc sống.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao nói rằng nét tài hoa của Minh Kỳ không chỉ ở những tác phẩm Ông viết cho mình mà là sự đáp ứng thị hiếu của mọi tầng lớp quần chúng. Cuối thập niên 1960, chiến tranh lan rộng, gái quê vào thành thị tìm việc làm, thanh niên giả từ học đường thi hành quân dịch. Thính giả bấy giờ muốn nghe và hát những bài ca có lời giản dị, nét nhạc dễ nghe dễ hát, tiết điệu nhịp nhàng…dễ đếm: đấy là thời kỳ những bài nhịp Bolero ra đời. Minh Kỳ đáp ứng với Biệt Kinh Kỳ:

Bạn ơi! quan hà xin cạn chén ly bôi

Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi…

Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi

Bạn ơi! hãy nói khoác chiến y rồi…

Có lẻ chưa bao giờ một bài hát lại ăn khách tới mức đó. Hằng tuần trên làn sóng điện khi trực tiếp truyền thanh buổi thi hát mỗi sáng chủ nhật tại rạp Quốc Thanh, thì có ít nhất 3 thí sinh chọn bài này để thi. Nhạc Sĩ Dương Thiệu Tước đi chấm thi, tuần nào về cũng than là nghe Biệt Kinh Kỳ nhiều quá đến phát thuộc lòng!

Cái lạ là nhạc Minh Kỳ vẫn uyển chuyển dù viết ở thể loại nào. Câu cú rất hệ thống và tài tình nhất là lời ca đượm tính cách “kể chuyện” thật hấp dẫn.

– Nhà Văn Phạm Tín An Ninh có bài “Cái Chết Oan Khuất của Nhạc Sĩ Minh Kỳ”:

“Tôi và Minh Kỳ cùng trại tù An Dưỡng. Tôi ở nhà 1, Anh nhà 3.Một đêm cuối tháng 8.75, khoảng 9:30 tối, toàn trại đang chìm trong bóng đêm, cả ngàn người tù nằm thao thức chờ đợi những bất trắc sẽ đến với số phận mình. Bỗng một tiếng nổ long trời, kèm theo tiếng la thất thanh, còi báo động, loa phóng thanh lệnh cho tất cả “cải tạo viên” nằm yên tại chỗ, kẻ nào bước ra khỏi nhà sẽ bị bắn bỏ.Khi chúng tôi chưa hết hoang mang, thì tiếng xích sắt xe tăng T 54 tràn vào trại rít lên từng chặp, chia nhau bao vây từng căn nhà. Hằng loạt bộ đội, súng gắn lưỡi lê, mặt tên nào cũng đằng đằng sát khí túa vào từng nhà, kéo cơ bẩm lên đạn, quát tháo tù nhân đứng ngay tại chỗ, 2 tay để trên đầu.Chúng tôi chịu bất động như vậy cho đến gần 10 giờ trưa thì thấy mấy anh em tù khiêng số người bị thương lên trạm xá. Hôm sau tất cả tù nhân được đưa lên hội trường và bị “nghiêm khắc” cảnh cáo là “ có bọn phản động trong các anh đã dấu diếm vũ khí, mang lựu đạn Mỹ vào để phá hoại thành quả “kách mạng”.Một số bạn tù kể lại: nhà 3 chứa khoảng 80 tù nhân. Khi ấy tổ của Minh Kỳ đang họp phân công nấu bếp ngày mai, thì quả lựu đạn được quăng vào vách tôn ngay phía sau làm 3 người chết và 8 bị thương. Minh Kỳ thương tích rất nặng ở ngực, bụng và cổ. Anh chết từ từ cho đến lúc tắt thở.Ai cũng biết là trái lựu đạn giết chết Minh Kỳ cùng những bạn tù khác là do chính bọn việt cọng quăng từ khu vực ban trực trại phía bên kia hàng rào cách chừng hơn 5 mét”.Tro cốt Ông được lưu giữ tại nhà hài cốt Giáo Xứ Tân Định.

8. HỒ ĐÌNH PHƯƠNG (1927 – 1979)

Xuất bản hơn 10 Tập Thơ. 100 nhạc phẩm của hơn 20 nhạc sĩ danh tiếng được Ông viết lời hay phổ từ thơ Ông. Từng làm Phó Tỉnh Trưởng Ninh Thuận sau khi đỗ đầu khóa Đốc Sự Hành Chánh.Sau 75 bị tù 2 năm rồi vượt biên cùng vợ con và mất tích trên Biển Đông năm 1979.

– Ca Sĩ Quỳnh Giao không ngần ngại chút nào khi nói rằng chưa ai qua mặt Hồ Đình Phương trong lời từ về một địa danh, một thành phố. “Nhớ về Dalat” hay “Nhớ Nha Trang” đều do Ông đặt lời làm người nghe thấy yêu những thành phố này biết dường nào.

– Theo Du Tử Lê thống kê thì trong khoảng 200 ca khúc Nhạc Sĩ Hoàng Trọng để lại cho đời, người ta đếm trên dưới 50 bài do Hồ Đình Phương đặt lời hay lấy từ thơ Ông.

Một bài hát rất nổi tiếng được nhiều người ưa thích là Con Đường Xưa Em Đi.

– Theo Phù Sa (Con Đường Xưa Em Đi – Chuyện Tình của Nhạc Sĩ Châu Kỳ và Châu Thị Đàng, hoainiem.org): Bà Đàng kể thời điểm 1967 – 68 Bà làm kế toán, còn Hồ Đình Phương là Phó Giám Đốc nhà máy giấy Tân Mai, Biên Hòa. Phía sau có con đường nhỏ băng qua cánh đồng lúa mà Bà thường đi lại để về nhà. Chứng kiến cảnh ngộ đó, Hồ Đình Phương đặt lời cho bài hát rồi Châu Kỳ phổ nhạc vào năm 69 với ca từ thanh thoát, dịu dàng, truyền cảm, chan chứa tình yêu. Thật không uổng phí thì giờ để hồn lắng đọng mà nghe lại bài này:

Con đường xưa em đi

Vàng lên mái tóc thề

Ngõ hồn dâng tái tê

Anh làm thơ vu quy

Khách qua đường lắng nghe

Chuyện tình ta đã ghi

Những mùa trăng vu quy

Vì mưa gió không về

Chiến trường anh bước đi

Có nàng hoen đôi mi

Ngóng theo đường vắng hoe

Hỏi còn ai cố tri

Em ơi, nhìn gió lên khơi

Lòng có trông vời

Một người xa cuối trời

Nơi đây phiên gác canh dài

E ấp đôi lời mình còn nhớ thương hoài

Em ơi, màu áo phong sương

Mình ước huy hoàng

Được bàn tay chính nàng

Dâng hoa, dâng hết ân tình

Tình đến bao giờ

Hỏi đường xưa mà nhớ

Con đường xưa em đi

Thời gian có quên gì

Đá mòn kia vẫn ghi

Ghi một đêm trăng thanh

Quán bên đường vắng tanh

Chỉ còn em với anh

Lời nhạc êm tai tha thiết như vậy mà từng bị cấm. Thử hỏi có đáng tiếc lắm không?

– Nhạc Sĩ/Nhà Phê Bình Âm Nhạc Nguyễn Quang Long đã gởi Zing.vn bài viết bày tỏ quan điểm về việc Cục Nghệ Thuật Biểu Diễn ban hành quyết định vào giữa tháng 3.2017 cấm lưu hành Con Đường Xưa Em Đi và 4 nhạc phẩm khác với lý do bài hát không đúng với bản gốc. Nhạc Sĩ nói rằng “đã cấp phép rồi lại cấm sẽ gây tác dụng ngược”.

“Trước tiên phải nhìn nhận những ca khúc sáng tác trước 75 tại miền Nam là phần tạo nên diện mạo của nền âm nhạc mới Việt Nam thế kỷ 20.

Bên cạnh nhạc trẻ và nhạc trữ tình, những nhạc sĩ trong giai đoạn này đã góp phần sáng tạo nên dòng nhạc chúng ta vẫn gọi là Bolero, phù hợp với tâm tư, tình cảm và nhu cầu thẩm mỹ âm nhạc của số đông người Việt.Đây chính là yếu tố khiến nhiều ca khúc thời kỳ này có sức sống và lan tỏa mạnh mẽ.Theo nhạc sĩ Long, việc Cục cấm hát 5 ca khúc ít nhiều gây bất ngờ trong giới nghệ sĩ và công luận. Sự việc càng trở nên rối khi những lý do viện dẫn để cấm chưa thực sự khiến công chúng tâm phục. Điều này vô tình tạo nên làn sóng phản ứng và đẩy vụ việc thành tâm điểm dư luận kéo dài qua nhiều tuần.Trong khi đó, theo tiết lộ của một nhà quản lý với báo chí “chiến trường” ở đây là chiến trường nào khi nói về Con Đường Xưa Em Đi?Bà Đàng từng chia sẻ: việc sử dụng từ “chiến trường” hay “phiên gác” chỉ là để phù hợp với hoàn cảnh lúc bấy giờ, tác giả chỉ mượn những hình ảnh này nói thay tâm tư tình cảm nhớ mong về tình yêu đôi lứa.Cần nhìn nhận việc cấm 5 ca khúc này chỉ là hình thức. Thực chất hiệu quả của việc cấm cũng như không, bởi lẽ những ca khúc ấy đã có đủ thời gian sống trong lòng công chúng”.Cho đến ngày 15.4.17 thì quyết định cấm đã được thu hồi.

9. THỤC VŨ (1932 – 1976)

Tên thật Vũ Văn Sâm. Trung Tá ngành Tâm Lý Chiến. 1969 tiếp nối Đinh Hùng và Tô Kiều Ngân phụ trách Thi Văn Tao Đàn, đổi thành Thi Nhạc Giao Duyên, phối hợp ngâm thơ với trình bày ca khúc tân nhạc.Thời gian làm việc ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Ông cho ra đời bản hùng ca Quang Trung Hành Khúc được tân binh thường xuyên hát vang trong những ngày ra thao trường tập luyện.1975 bị giam trại Tân Hiệp, Biên Hòa. Tại đây Ông sáng tác nhạc phẩm “Suối Máu” với mấy dòng thơ cảm đề:

Em ở Saigon anh ở đây

Đồi pha cát trắng kẽm gai đầy

Ngẩn ngơ dăm chuyến tàu xuôi ngược

Để nhớ nhung về che khuất mây

1976 chuyển ra Sơn La rồi mất tại vùng rừng thiêng nước độc này. Một số bạn hữu kể lại những ngày tù của Ông:

– Nhà Văn Văn Quang (Mừng Cho Người Chết Trong Nhà Tù “Cải Tạo”): Thục Vũ đau gan đến vàng mắt nhưng bệnh xá chỉ nhỏ cho vài giọt nước củ tỏi vào mũi. Bệnh nhân đành nằm chờ chết.Một buổi sáng Phan Lạc Phúc nước mắt chảy chậm trên mặt nghẹn ngào cất tiếng: thằng Sâm chết ở bệnh xá đêm qua rồi.Tôi lặng người bởi hôm qua lẻn sang thăm Thục Vũ, Anh đưa cho tôi hai gói thuốc lào nhỏ: “tôi mệt không hút được nữa”. Sau đó Tô Kiều Ngân nói với tôi lời an ủi: “Mừng cho nó, từ nay nó không còn biết đói rét và không ai hành hạ được nó nữa”.

Buổi chiều chạng vạng nơi núi đồi Sơn La, từ bệnh xá quanh con đường đá nhỏ, vòng theo sườn núi cao vút chập chùng, “đám tang” di chuyển chậm chạp trông thật đau lòng. Hai cai tù vác AK đi đầu, kế đến một anh tù cầm vài nén nhang, 4 người khiêng cổ quan tài mộc. Sau cùng là hai cai tù súng AK. Họ chuyển động như những bóng ma.Hơn 30 tù nhân đội rau đứng ngẩn ngơ dán mắt theo đám ma thê thảm ấy. Phan Lạc Phúc đứng bên tôi không nói lời nào, quay mặt che giấu nước mắt. Tô Kiều Ngân và mấy bác sĩ tù nhân trẻ nép sau hàng rào kẽm gai cũng xúc động xót xa trông như tượng gỗ dõi theo đám tang dần khuất vào cuối con đường cong phía chân núi.Một tháng trước khi mất Thục Vũ có bài “Gởi Saigon”:

Viết bài thơ sau cuối

Ý nhạc tàn theo mây

Hồn anh về bên Chúa

Xác anh gửi phương này

– Nhà Thơ Hoàng Ngọc Liên kể lại: sáng 15.11.76 lúc đang phát quang con đường trước trại giam thì “đám tang” Thục Vũ đi qua. Chúng tôi ngã nón cúi đầu chào người bạn vừa đột ngột từ trần. Vài tháng sau trên đường gánh tranh về trại, tôi bất ngờ lạc vào nơi Thục Vũ yên nghỉ. Đó là góc đồi Ban xã Mường Thái với chừng mười nắm đất mới. Năm 1988 tôi được thả về Saigon có nghe Chị Lệ Khánh đã lặn lội ra tận đây đem cốt Chồng vào Nam.

– Nhà Thơ Huy Trâm viết: “Dù bị tù tội, Thục Vũ vẫn say sưa hát. Huy Trâm thuật lại lời Phan Lạc Phúc: một hôm mưa tầm tả, cả đội lo đi hứng nước thì phải chạy trú tạm dưới mái tranh, nhưng Thục Vũ trên vai còn vác bó nứa vẫn đứng hát giữa trời. Mưa xối xả ướt cả áo quần, Anh vẫn mặc. Ta cứ hát. Phúc mới nói to: Thôi đi Vũ ơi! Rồi ốm bệnh cho mà xem! Thục Vũ vẫn nghêu ngao hát xong bài rồi mới vào hàng trú mưa. Hát cho quên sầu…và cũng là lần hát cuối đời. Một tuần sau anh mất”.

Thục Vũ đã có vợ nhưng duyên nợ đưa đẩy Ông yêu thương Nhà Thơ Lệ Khánh. Họ có với nhau một bé trai. Điều đáng nể là Bà Thục Vũ không ghen tuông ồn ào mà lại đích thân vô bệnh viện thăm viếng chăm sóc cho người tình của chồng sinh đứa con đầu lòng.

Vào những năm 1964 – 66, thi đàn miền Nam bỗng dưng xuất hiện nhà thơ nữ gây xôn xao dư luận với 5 Tập Thơ “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” do nhà sách Khai Trí xuất bản lúc mới chừng 20 tuổi.Lệ Khánh yêu Thục Vũ với những vần thơ diễm tình làm Ông rung động phổ thành bài ca “Tình Người Hậu Tuyến”:

Hôm nay trời vào thu

Dalat lắm sương mù

Cây khô buồn trút lá

Gió ven hồ bay xa

Mây thu lờ lững trôi

Lồng lộng gió lưng đồi

Xin anh đừng giận dỗi

Viết thư về thăm em

Lệ Khánh để lại hằng trăm bài thơ da diết. Nơi đây chỉ xin trích nửa bài “Em Là Gái Trời Bắt Xấu” như là tiêu biểu cho vần thơ của thi nhân xứ Huế đa đoan sầu mộng:

Chiều chủ nhật đợi chờ anh mãi mãi

Sao trể giờ cho chua xót anh ơi!

Hẹn hò chi, chừ lỡ dở cả rồi

Tình mới chớm đã vội vàng lịm tắt

Tôi yêu anh nhưng hoài hoài thắc mắc

Liệu người ta đáp trả lại hay không

Đến bao giờ dẫm được xác pháo hồng

Áo cưới đỏ cười vui cô dâu mới

Anh hẹn đúng hai giờ anh sẽ tới

Nhưng sao chừ trời đã tối…anh đâu?

Mưa hôm nay êm như tiếng mưa ngâu

Anh lỡ hẹn nên chiều buồn rứa đó

Tôi gục mặt khóc thầm bên cửa sổ

Mà cô đơn trời hỡi vẫn cô đơn

Nơi xa xôi anh có biết tôi buồn

Anh có biết tôi cười mắt ngấn lệ

Anh lỗi hẹn hay là anh đến trể

Cho chiều nay đường phố lạnh mưa thu

Và đêm nay thành thị ướt sương mù

Người con gái gục đầu thương mệnh bạc.

10. DƯƠNG HÙNG CƯỜNG (1934 – 1987)

Trung Úy Quân chủng Không Quân. Nhà Văn với 3 tác phẩm: Lính Thành Phố, Buồn Vui Phi Trường, Vĩnh Biệt Phượng.

Làm báo lấy bút hiệu Dê Húc Càng. Nổi lên ở Con Ong từ những số báo đầu với mục Cà Kê Dê Ngỗng, chuyên châm biếm tệ trạng xã hội, tố cáo bê bối của những nhân vật tai to mặt lớn.

– Nhà Văn Nguyễn Thụy Long trước khi trở thành văn sĩ đã viết: Tôi yêu thích phóng sự “Buồn Vui Phi Trường” của Dương Hùng Cường và vẫn hy vọng được tiếp xúc với anh, góp phần vào tờ báo Lý Tưởng của đơn vị.

Tác giả Loan Mắt Nhung từng bị Trung Sĩ Dương Hùng Cường cảnh cáo: “Mày chẳng là gì cả trong quân đội, một hạt cát, thân phận tối đen, tao đã trải qua rồi, tao nỗi khùng, tao chửi toáng lên, sức mạnh của tao là ngòi bút, tao là văn sĩ mày biết không? Tao chống bất công ở bất cứ đâu”.

Nguyễn Thụy Long cho thấy phẩm cách đáng kính trọng, đáng ngợi ca của Dương Hùng Cường. Ông cho rằng cũng vì tính cương cường chống lại mọi hà hiếp áp bức mà Cường dù tốt nghiệp chuyên môn ở trường huấn luyện không quân Marrakeck (Pháp) với lon trung sĩ, nhưng suốt Đệ Nhứt và nửa thời gian Đệ Nhị Cọng Hòa Ông vẫn mang Trung Sĩ, trong khi các bạn đồng khóa hầu hết đều lên sĩ quan.

– Tác giả Hồ Đắc Túc có bài Mộ Dương Hùng Cường – Nơi Mộ Phóng Viên Báo Chí ở Normandie Pháp”: đây là Khu Vườn Tưởng Niệm gồm 27 bia đá khắc tên gần 2500 phóng viên khắp thế giới từ 1944 đến 2019 đã hy sinh vì sứ mạng đưa tin của họ. Vườn do Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters San Frontieres) thành lập. Dương Hùng Cường có tên trên mộ bia, cái chết của Ông được viết: Died in prison, supposedly of a brain haemorrhage. Arrested by the government in 1975, free sometime between 1978 & 1981 then arrested again in 1984 with many other journalists’.

– Nhà Văn Trần Ngọc Tự cảm tác bài thơ “Rượu Ngày Giỗ Bạn” nhân giỗ đầu Cường:

Chén âm dương vỡ giữa đời

Thoảng quanh men rượu ngỡ người bên mâm

Cuồng say thôi cũng âm thầm

Nhắp môi uống nốt mê lầm phù sinh

– Nhà Văn Hồ Nam qua bài: 100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ, Dương Hùng Cường Người Viết Văn Hài Sinh Nghề Tử Nghiệp’ (http://tanmanvanchuongthephong. blogspot.hung-cuong-nguoi) nêu rõ cuộc đời Cường từ sau 75:

Đi tù đợt đầu về, Cường làm nhiệm vụ “bế con”, “bửa củi”, nấu cơm cho vợ bán cháo phổi (dạy học).Giữa thời kỳ ăn “bo bo”, chạy từng bữa, Cường được Trung Úy Không Quân Trần Ngọc Tự báo tin: “sếp” Trần Tam Tiệp ở hải ngoại, nhân danh “Văn Bút Việt Nam” phát động chiến dịch “nhà văn từ ngục tù cọng sản viết, gởi bài ra nước ngoài”, nhuận bút trả bằng những “thùng đồ bộn bạc”.Cường nói với Tự: Cường không cần nhuận bút trả bằng thùng đồ, nhưng Cường viết để cho hải ngoại biết cọng sản… cỡ nào.

Không những viết bài gởi ra hải ngoại, mà Cường còn rủ các nhà văn khác: Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Lý Thụy Ý cùng viết. Hình thành một mặt trận “tự do văn hóa” khiến cọng sản…hoảng hốt cho công an đàn áp.Khi bị bắt, Cường hiên ngang nhận: ‘không những viết văn để vạch trần tội ác của chế độ cọng sản việt nam, mà còn cổ động anh em cùng viết văn, thơ tố cáo tội ác…’Thời gian bị bắt, Cường vào khu biệt giam dài dài, nhưng không ngán, suốt ngày ca vọng cổ tuồng Võ Đông Sơ – Bạch Thu Hà.Với giọng ca mùi “rệu”, khiến nhiều nữ tù “vượt biên” say mê, gởi quà thăm nuôi cho Cường lia chia, càng có quà của các “fan”, Anh càng phấn khích ca hát. Có đêm tới giờ giới nghiêm vẫn chưa chịu ngủ, cán bộ đe dọa cùm, Anh mới chịu ngưng ca.Đêm cuối đời Cường là đêm mưa to gió lớn, có lúc khu trại giam bị mất điện, nhưng tiếng ca Cường vẫn cứ mùi mẫn cất lên – như anh sinh ra để ca vọng cổ vậy.Sau đêm hôm đó, tới 8 giờ sáng, quản giáo mở cửa phòng để điểm danh. Một cán bộ gọi số tù của Cường – mãi không có tiếng trả lời – bèn quát lớn, “ngủ đến 8 giờ không chịu dậy, sẽ bị cùm đấy”.Lời dọa nạt không có lời đáp, cán bộ đập cửa phòng ầm ầm, rồi tức tốc mở cửa, lấy chân đá vào người Cường, “dậy mau, giỡn mặt với quản giáo hơi nhiều rồi đó!”Bị lãnh 2, 3 “cú” đá khá mạnh, Cường vẫn nằm im không cục cựa.“Thằng này ‘lì’ phải cùm thôi”.“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn trúng gió rồi, mau đưa đi cấp cứu, sao cứ đá hoài vậy. Tù cũng là người, chứ đâu phải…”.Nghe lời cải tạo viên, quản giáo vội vàng kêu ‘tù’ nhà bếp tới, dựng Cường dậy, đem đi cấp cứu.

“Cán bộ ơi! Ông Nhà Văn ‘ná thở’ rồi, còn cấp cứu gì nữa”.

“Hôm qua còn ca vọng cổ om sòm, sao ‘ná thở’ được.

“Người Ông tím bầm, chắc bị rắn cắn quá”.

Nhà Văn Nhà Báo tài hoa kết thúc thê thảm như vậy đó.Vì trời mưa gió thổi mạnh, rắn lục từ trên cây đối diện phòng biệt giam rớt xuống, bò vào cắn chết Ông.

– Cô Giáo Ấu Oanh viết bài “Khóc Bạn”

(Nam Kỳ Lục Tỉnh – Hồi Ký, Google sites).

Ấu Oanh, hiền thê Ca Sĩ Khuất Duy Trác kể chuyện bạn học Vũ Hoàng Oanh (Vợ Dương Hùng Cường): Ra trường Đại Học Sư Phạm 1964, rồi kết hôn với Cường năm sau. Họ sinh hạ 6 công chúa trong vòng 10 năm.1974 Hoàng Oanh tất bật dạy thêm kiếm tiền giúp chồng in tác phẩm thứ ba: Vĩnh Biệt Phượng. Sách vừa xuất xưởng chưa kịp phân phối ra ngoài thì mất nước, cả hai Ông vào tù. Để lại gánh nặng gia đình cho hai Cô Giáo phải đầu tắt mặt tối bon chen với chợ đời, làm sao nuôi nổi đàn con thơ dại…Thế rồi một hôm đầu năm 1979, Hoàng Oanh ngập ngừng tỉ tê: “Ta nói cái này, đừng giựt mình nhé…Ta có bầu”. Tôi nghe mà hoảng hồn. Hoàng Oanh khai: Hôm Tết rồi đi thăm Ông Cường trại cho ở lại một đêm…Rồi Hoàng Oanh năn nỉ dẫn đi phá thai vừa tròn hai tháng vì sợ không ai tin nổi. Ai đời Cô Giáo chồng đi ở tù mà lại mang bầu. Ai tin. Bà con, bạn bè, nhà trường…họ sẽ bêu riếu bôi tro trát trấu lên đầu “vợ thằng ngụy”.Tôi đem chuyện kể lại Mẹ. Bà Cụ bình tĩnh tính toán rồi khẳng định Hoàng Oanh sẽ sinh con trai. Nhờ vậy mà bạn bỏ ý định phá thai. Sau đó quả thật sinh trai đặt tên Phụng Hoàng (thờ phụng màu vàng).Rồi Cường ra tù. Anh liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang ở Pháp. Anh Tiệp gởi những thùng quà về giúp văn nghệ sĩ còn kẹt lại. Việc này dẫn tới hậu quả là đợt bắt giam “những tên Biệt Kích Cầm Bút” vào tù. Năm 1987 Dương Hùng Cường mất tại Phan Đăng Lưu. Hoàng Oanh đau đớn vật vã than khóc như cảnh ngộ thiếu phụ năm xưa “Đi Nhận Xác Chồng” của Lê Thị Ý:

Mùi hương cứ tưởng hơi chồng

Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu

Hai năm sau, Hoàng Oanh bị tai nạn xe không qua khỏi, bỏ lại đàn con thơ 6 đứa bơ vơ.

Phạm Văn Duyệt

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Phạm Văn Duyệt- Mười cái chết oan khiên của văn nghệ sĩ miền Nam- April 4, 2022

Dương Nguyệt Ánh vẫn “hừng hực lửa” và Phan Nh ật Nam vẫn là bạn hiền-nhu mì của HLC- March 26, 2022

Trích LanChiYesterday-Những vụn vặt đời sống quanh tôi

Dương Nguyệt Ánh vẫn "hừng hực lửa"

và Phan Nhật Nam vẫn là bạn hiền-nhu mì của HLC

KHÔNG THỂ ĐOÁN ĐƯỢC SẼ RA SAO

Chiến tranh Nga-Ukraine làm nhiều người bối rối, không biết ra sao và cuối cùng thế nào. VD xe tăng Nga ở đó mà không tiến thêm và Ukraine cũng không bắn. Nhưng cuộc chiến này đẻ ra nhiều anh hùng/anh thư bàn phím ghê. Họ chửi Putin ngu, bà Hằng đần…Giời ơi trùm cs gộc, trùm KGB, độc ác, thủ đoạn mà mắng nó ngu thì buồn cười quá. Bà Hằng là đại gia như thế mà mắng người ta đần thì cũng buồn cười quá. Nhiều người đoán có thể Putin sẽ cho phóng "hạt nhân" căn cứ vào quá khứ, tính nết. Cá nhân tôi thì nghĩ rằng: con gái đi đêm, ăn mặc hở hang thì xác xuất gặp "ma" và bị "ma" giết là cao. Vậy các quốc gia nhược tiểu nên 1,2,3,4 thay vì 5,6,7,8 nếu không muốn bị cá lớn nuốt.

Trên cõi đời này, Thượng đế sinh ra: mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, quốc gia lớn ức hiếp quốc gia nhỏ…Chả có công bằng ngay từ khi tạo thiên lập địa, ngay từ khi mới được đẻ ra. Người xấu/kẻ đẹp, người khôn/kẻ ngu, người học giỏi/người không thích học, người ác kẻ hiền như ma sơ…Ngồi đó mà mắng A ngu B đần thì lẽ ra nên có kiến thức kha khá ĐỂ CHỌN LÁ PHIẾU CHO ĐÚNG. Vd Mỹ, EU có lá phiếu đúng thì tập hợp một khối, san sẻ trách nhiệm, tát đầm lầy tham nhũng ở quốc gia mình đang là nguyên thủ thì đối đầu với Nga, TC sẽ đỡ vất vả hơn. Mà thôi, viết nữa thì "Bà Tổng" HLC cũng sẽ là "anh hùng bàn phím". ( cười).

NHỮNG NGƯỜI BẠN ‘TỬ TẾ"

Một số người không thì giờ hay có tuổi-ở trong nước ( tức là không giỏi Anh Ngữ, computer, cắt dán..) luôn cảm ơn "bà chằng" HLC vì những Bản Tin Ngắn. Đúng vậy. Tin nhiều quá. Tôi chỉ lấy ý chính. Không cần chi tiết. Thế là người bình thường cũng "nhớ được" một mớ tin để không bị lạc hậu, cũng có cái để nói chuyện với bạn bè mà chỉ tốn 2 phút để đọc!

CÓ VỀ MỸ, NAM SẼ ĐI ĐÓN

Một trong những người bạn lâu năm, "tử tế" của tôi là Phan Nhật Nam. Nam mới mail, kể rằng Dạ Lan 1 tên là Huỳnh Xuân Lan ( không phải họ Hoàng) vì là người miền Trung. Nam bị xếp ngồi giữa hai người con gái vì nhỏ tuổi và nghịch ngợm: Xuân Lan- Duyên. Khi đi tù về, Nam có ghé thăm Văn Quang-Dạ Lan 1. Nam còn Pi ét một câu cuối: "Có về Mỹ, nói tôi đi đón, Uber Free". Thiệt tình Uber bây giờ không đắt nhưng dại gì không kêu Nam đi đón nhỉ? (cười). Nam vẫn là một người bạn hiền lành-nhu mì-dễ thương của "Bà Tổng" HLC.

Nhớ khi xưa mới "move" về CA, tôi cần qua Pasadena thăm ô Hoàng, người hàng xóm cũ, tôi "bắt" Nam chở đi dù khi ấy Nam đang rất bận vì phải take care phần tin tức của Việt Dzũng ( vừa mất).

Cũng khi xưa tại CA, Nam đến nơi tôi ở và tôi đem laptop ra gõ khi phỏng vấn Nam. Vì thân nên tôi vẫn mặc short ở nhà (đang mùa hè). Chỉ vậy thôi mà ông bạn Nam trêu "Để tui chụp hình phổ biến cho mọi người thấy bà Hoàng Lan Chi mặc quần đùi phỏng vấn Phan Nhật Nam"! Hứ. Cứ làm như "bà chằng" HLC sợ vậy.

Link phỏng vấn Nam ngày trước:

Với “Một Người Lính Viết Văn” Phan Nhật Nam

VẪN LỬA HỪNG HỰC

KHG Dương Nguyệt Ánh là một người vẫn "nguyên vẹn lửa dân tộc" dù đã hơn 40 năm trôi qua. Ngày đến Mỹ, DNA chỉ mới 16 nhưng thuở sinh viên đã tham gia các sinh hoạt quốc gia này nọ. Được gọi là "người đàn bà bom" nhưng DNA đẹp dịu dàng, đằm thắm, nết na. Ngôn ngữ, y phục rất nề nếp, "con nhà". Những bài nói chuyện của DNA gây chấn động là khi cô sang Úc. Rồi sau này nhiều nơi mời và nơi nào vẫn thế: vẫn một DNA sắt son với lập trường quốc gia, với lằn ranh quốc cộng rạch ròi.

Mới nhất, DNA dự ngày giỗ của Cựu Tướng Lê Minh Đảo ở Nam CA. Tôi chả biết gi sất vì không thấy ai loan tin ở diễn đàn. Có lẽ mọi người bị "bội thực" với tin Ukraine. Tôi chỉ biết khi được mail của em. DNA báo tin em mới đến Westminster và tiếc là tôi không ở đó để chị em lại gặp gỡ. Tôi gú gồ và thấy được một youtube phỏng vấn DNA trong ngày ấy. Một DNA vẫn "hừng hực lửa". Nhưng có lẽ tuổi tác đã khiến DNA "rực lửa" hơn nếu so với thời DNA nói chuyện ở Úc.

Tôi chụp lại từ youtube một số hình DNA nhưng tôi thích hình này nhất vì Ánh diễn tả về máy bay ở một nơi tôi quên tên mà Ánh rất "tâm đắc" câu viết (slogan) của họ (Your attitude and not your aptitude determines your altitude"

Cầu mong chiến tranh Ukraine sớm chấm dứt. Thế giới đang khốn khổ vì vật giá leo thang chóng mặt. May mà "Bà Tổng" HLC chỉ có thú làm vườn, ngắm hoa.

Hoàng Lan Chi

3/2022

Posted in Tạp Ghi | Comments Off on Dương Nguyệt Ánh vẫn “hừng hực lửa” và Phan Nh ật Nam vẫn là bạn hiền-nhu mì của HLC- March 26, 2022